“Trên thực tế, vé gửi xe được coi là giấy tờ chứng minh giữa các bên có hợp đồng gửi giữ”, ông Trần Công Thịnh, giảng viên bộ môn Luật Dân sự, khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội cho biết.
Liên quan đến việc bồi thường cho người gửi xe có phương tiện bị cháy trong vụ cháy bãi gửi xe gây thiệt hại hơn 2 tỷ đồng, Thời báo Đông Nam Á đã có cuộc trao đổi với luật sư Nguyễn Văn Nguyên, giám đốc công ty luật Hưng Nguyên, Đoàn luật sư TP.HN và ông Trần Công Thịnh, giảng viên bộ môn Luật Dân sự, khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội để làm rõ một số vấn đề này.
Trách nhiệm pháp lí giữa các bên liên quan?
Luật sư Nguyên cho biết: “Vụ cháy xẩy ra làm phát sinh trách nhiệm pháp lý giữa các bên có liên quan. Cụ thể là xác định nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại của người đốt rác, chủ bãi gửi xe cho người gửi xe bị thiệt hại. Căn cứ điều 559 bộ luật dân sự 2005 thì giữa chủ xe và người nhận trông gửi xe đã phát sinh hợp đồng gửi giữ tài sản có thu phí. Cũng theo quy định tại các điều 561, 562 bộ luật dân sự 2005 thì bên gửi tài sản có quyền yêu cầu bên nhận gửi tài sản bồi thường thiệt hại do tài sản bị mất mát, hư hỏng, trừ trường hợp bất khả kháng mà theo quy định của pháp luật, con người không thể lường trước được, không thể ngăn chặn được, mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp để ngăn chặn và phòng tránh, ngăn ngừa thiệt hại xẩy ra.
Như vậy để làm rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ bãi gửi xe cho chủ xe bị cháy thì cơ quan chức năng cần điều tra làm rõ chủ bãi gửi xe có tuân thủ các điều kiện cấp phép, phòng cháy, chữa cháy, an ninh trật tự, khi phát hiện đám cháy lan sang bãi gửi xe thì chủ bãi gửi xe đã làm hết trách nhiệm (huy động nhân lực, phương tiện, kêu gọi sự giúp đỡ của cơ quan chức năng..) trong việc ngăn ngừa thiệt hại xẩy, để bảo vệ tài sản cho các chủ xe mà mình nhận trông giữ hay chưa.
Bộ luật cũng quy định các bên có quyền thỏa thuận việc bồi thường, trường hợp không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết.”
Vé xe có được coi là hợp đồng để bồi thường?
Về vấn đề căn cứ xác nhận bồi thường giữa chủ xe và chủ bãi gửi xe, giảng viên bộ môn Luật Dân sự, khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội Trần Công Thịnh cũng cho biết:
“Khi gửi xe, giữa người gửi xe và người giữ xe đã thiết lập Hợp đồng gửi giữ tài sản, Điều 559 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, còn bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công”.
Trong trường hợp tài sản gửi giữ bị mất mát, thiệt hại, hư hỏng thì bên gửi giữ có quyền yêu cầu bên nhận gửi giữ bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều 561 Bộ luật Dân sự. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự cũng có những điều khoản cụ thể quy định về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên vi phạm nghĩa vụ dân sự (Điều 302, Điều 307), về nghĩa của bên giữ tài sản là “phải bồi thường thiệt hại, nếu làm mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng”.( khoản 4 Điều 562)
Trên thực tế, vé gửi xe được coi là giấy tờ chứng minh giữa các bên có hợp đồng gửi giữ. Do vậy, chủ xe cần có vé xe để chứng minh rằng mình đã gửi xe trong bãi xe. Nếu không có vé gửi xe thì chủ xe rất khó hoặc không thể yêu cầu chủ bãi gửi xe bồi thường.
Trong trường hợp bất khả kháng (thảm họa thiên tai…) thì chủ bãi gửi xe không phải bồi thường. Ở đây có thông tin cho rằng có người dân do thu mua ve chai, đốt phế liệu gần đó nên gây bắt lửa và cháy bãi xe nhưng nếu không tìm ra người gây hỏa hoạn thì chủ bãi gửi xe vẫn phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.”
Trước đó, Thời báo Đông Nam Á đã đưa tin về vụ việc này. Theo thông tin ban đầu, khoảng 13 giờ 40, một người đốt rác gần bãi giữ xe gắn máy, ô tô (nằm đối diện với Bệnh viện Q.8). Trong quá trình đốt rác, ngọn lửa đã lan sang bãi xe nói trên gây cháy.
Thấy vậy, nhân viên bãi giữ xe cùng người dân đã xông vào di dời phương tiện ra ngoài để tránh lửa. Tuy nhiên, người dân vừa đưa được hơn 10 xe gắn máy ra ngoài thì đám cháy đã bùng phát dữ dội. Do bãi xe đang giữ hàng trăm xe gắn máy, phần lớn có chứa xăng nên đám cháy lan ra rất nhanh. Lửa kèm theo cột khói đen ngùn ngụt bốc lên cao và phát ra nhiều tiếng nổ khiến người dân hốt hoảng tháo chạy tán loạn. Lực lượng PCCC tại chỗ đã dùng bình chữa cháy, nước sinh hoạt dập lửa nhưng bất thành.
Đến 13 giờ 50, nhận được tin, Sở Cảnh sát PCCC TP.HCM đã chỉ đạo Phòng Cảnh sát PCCC Q.8 điều động 7 xe chữa cháy cùng hơn 50 cán bộ chiến sĩ xuống hiện trường. Đến nơi, đám cháy đã lan rộng và làm sập một phần mái che của bãi giữ xe nên lực lượng chức năng phải gọi chi viện từ Phòng Cảnh sát PCCC Q.1 điều thêm 6 xe chữa cháy với hàng chục cán bộ chiến sĩ đến hỗ trợ. Sau đó, lực lượng cứu hộ cứu nạn cùng người dân đã đưa thêm 50 xe gắn máy bị cháy xém ra ngoài. Đến 14 giờ 30 cùng ngày, đám cháy mới cơ bản được dập tắt.
Thiệt hại ban đầu ước tính khoảng 300 xe máy và ô tô. Hiện công an quận đang phối hợp với Sở Cảnh sát PCCC TP.HCM truy tìm người đốt rác nói trên để điều tra làm rõ nguyên nhân dẫn đến cháy.
Công ty luật Hưng Nguyên hiện đang hỗ trợ nhiều tập đoàn, quỹ đầu tư nước ngoài tìm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư với các doanh nghiệp Việt Nam và tư vấn các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm đối tác chiến lược nước ngoài để bán cổ phần, tài sản, hoặc tham gia góp vốn vào dự án mới trong nhiều ngành nghề khác nhau.
Dịch vụ của chúng tôi bao gồm:
– Chiến lược: Chúng tôi cùng khách hàng xây dựng chiến lược mua bán & sáp nhập hợp lý nhất dựa trên nhu cầu của khách hàng và phù hợp với xu hướng phát triển của ngành. Chiến lược đồng thời đề xuất các giải pháp gia tăng giá trị doanh nghiệp và khai thác được các lợi ích cộng hưởng
– Chọn lọc, tiếp xúc đối tác tiềm năng: Chúng tôi xây dựng danh sách toàn diện nhiều đối tác mua/bán tiềm năng và, đại diện khách hàng liên lạc, và thuyết phục đối tác.
– Triển khai: Chúng tôi hỗ trợ khách hàng định giá; xây dựng hồ sơ chào bán; khảo sát doanh nghiệp và đàm phán; có ý kiến về các vấn đề liên quan đến thuế, luật pháp và kế toán; thu xếp vốn cho thương vụ mua bán & sáp nhập.
Cộng hòa Liên bang Myanmar còn có tên gọi khác là Miến Điện, là một quốc gia ở Đông Nam Á, tây bắc bán đảo Trung-Ấn. Myanmar là một nước giầu tài nguyên khoáng sản, trữ lượng khí tự nhiên vào hàng thứ 13-14 trên thế giới, đất đai phì nhiêu với tổng diện tích trồng trọt khoảng 23 triệu héc ta, nông nghiệp chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu. Tiềm năng, cơ hội đầu tư tại Myanmar rất lớn, không chỉ hấp dẫn về đầu tư, Myanmar còn là nước có vị trí địa- chính trị khá quan trọng, được các nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản rất quan tâm.
Trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội Đảng IX vào tháng 4 năm 2001 đã chính thức xác định chủ trương khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, với vai trò của Nhà nước là tạo ra khuôn khổ pháp lý nhằm khuyến khích, thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để phát huy lợi thế so sánh của đất nước. Những năm vừa qua, làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ. Bên cạnh các thị trường đầu tư truyền thống như Lào, Campuchia, Nga các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã vươn ra các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Singapore, Australia, Châu Âu… Phải chăng, theo quy luật tất yếu, các thị trường đầu tư quen thuộc rồi cũng sẽ tới lúc bão hòa, và Myanmar có thể là một thị trường tiềm năng đầy hứa hẹn đang chờ đón các nhà đầu tư Việt Nam.
Về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Myanmar: Cộng hòa Liên bang Myanmar còn có tên gọi khác là Miến Điện, là một quốc gia ở Đông Nam Á, tây bắc bán đảo Trung-Ấn. Có 5.876 km đường biên giới với Trung Quốc (2.185 km), Thái Lan (1.800 km), Ấn Độ (1.463 km), Lào (235 km) và Bangladesh (193 km). Đường bờ biển dài 1.930 km. Diện tích 676.577 km², là nước lớn nhất trong lục địa Đông Nam Á, và là nước lớn thứ 40 trên thế giới (sau Zambia). Nước này hơi nhỏ hơn bang Texas Hoa Kỳ và hơi lớn hơn Afghanistan. Myanmar nằm giữa Khu Chittagong của Bangladesh và Assam, Nagaland và Manipur của Ấn Độ ở phía tây bắc. Nó có đường biên giới dài nhất với Tây Tạng và Vân Nam của Trung Quốc ở phía đông bắc với tổng chiều dài 2.185 km. Myanmar giáp biên giới với Lào và Thái Lan ở phía đông nam. Myanmar có đường bờ biển dài 1.930 km (1.199 dặm) dọc theo Vịnh Bengal và Biển Andaman ở phía tây nam và phía nam, chiếm một phần ba tổng chiều dài biên giới[30]. Thủ đô hiện nay là Nay Pyi Taw (trước đó là Yangon). Dân số khoảng 47,374,158 triệu người.
Đồng bằng Ayeyarwady, diện tích gần 50.400 km², phần lớn canh tác lúa gạo. Ở phía bắc, núi Hengduan Shan tạo nên biên giới với Trung Quốc. Hkakabo Razi, nằm tại Bang Kachin, ở độ cao 5.881 m, là điểm cao nhất Myanmar. Các dãy núi Rakhine Yoma, Bago Yoma và Cao nguyên Shan nằm bên trong Myanmar, cả ba đều chạy theo hướng bắc- nam từ dãy Hymalaya. Các dãy núi phân chia ba hệ thống sông của Myanmar, là Ayeyarwady, Thanlwin và Sittang. Sông Ayeyarwady, con sông dài nhất Myanmar, gần 2.170 km, chảy vào Vịnh Martaban. Các đồng bằng màu mỡ nằm ở các thung lũng giữa các dãy núi. Đa số dân cư Myanmar sống trong thung lũng Ayeyarwady, nằm giữa Rakhine Yoma và Cao nguyên Shan.
Đa phần diện tích Myanmar nằm giữa Hạ chí tuyến và Xích đạo. Myanmar nằm trong vùng gió mùa Châu Á, các vùng bờ biển của nó nhận lượng mưa trung bình 5.000 mm hàng năm. Lượng mưa hàng năm tại vùng đồng bằng gần 2.500 mm, trong khi lượng mưa trung bình hàng năm tại Vùng Khô, nằm ở trung tâm Myanmar, chưa tới 1.000 mm. Các vùng phía bắc đất nước có khí hậu lạnh nhất, nhiệt độ trung bình 21 °C (70 °F). Các vùng duyên hải và đồng bằng có nhiệt độ trung bình 32 °C (90 °F).
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm của Myanmar góp phần giữ gìn môi trường và các hệ sinh thái. Rừng, gồm rừng nhiệt đới với loại gỗ tếch có giá trị kinh tế cao ở vùng hạ Myanmar, bao phủ 49% diện tích đất nước. Các loại cây khác mọc ở vùng này gồm cao su, cây keo, tre, lim, đước, dừa, cọ. Trên những cao nguyên phía bắc, sồi, thông, và nhiều giống đỗ quyên khác bao phủ đa phần diện tích. Những vùng đất dọc bờ biển có nhiều cây ăn trái nhiệt đới. Tại Vùng Khô, thực vật thưa thớt và còi cọc hơn.
Các loại động vật rừng rậm tiêu biểu, đặc biệt hổ và báo có nhiều tại Myanmar. Ở vùng Thượng Myanmar, có tê giác, trâu rừng, lợn lòi, hươu, linh dương và voi nhà, sử dụng nhiều nhất trong công nghiệp khai thác gỗ. Các loài có vú nhỏ hơn cũng rất nhiều từ vượn, khỉ tới cáo bay và heo vòi. Đáng chú ý là sự đa dạng các loài chim với hơn 800 loài gồm vẹt, peafowl, gà lôi, quạ, diệc và gõ kiến (paddybird). Trong số các loài bò sát có cá sấu, tắc kè, rắn mang bành, trăn và rùa. Hàng trăm loài cá nước ngọt, rất phong phú và là nguồn thực phẩm quan trọng. Năm 2011, đất canh tác 15,3% (2% có tưới), đồng cỏ 0,5%, rừng và cây bụi 49,3%, các đất khác 34,9%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, kẽm, antimon, đồng, vonfram, chì, than, đá quý.
Về hành chính: Myanmar được chia thành 7 bang và 7 vùng hành chính. Vùng lớn nhất là Bamar, các bang khác thực chất là các vùng sinh sống của một số sắc tộc đặc biệt. Các vùng hành chính được chia nhỏ tiếp thành các thành phố, khu vực và các làng. Các thành phố lớn được chia thành các quận. Các vùng và bang của Myanmar lại được chia thành các huyện (kayaing). Bang Shan là bang có nhiều huyện nhất (11 huyện). Các bang Chin, bang Mon và bang Kayah chỉ có hai huyện mỗi bang.
Về chính trị; Ngày 22 tháng 10 năm 2010, Myanmar tuyên bố đổi quốc hiệu thành Cộng hòa Liên bang Myanmar, thay đổi quốc kỳ và quốc ca. Sự kiện này diễn ra chỉ trước 17 ngày diễn ra cuộc bầu cử sau 20 năm kể từ lần bầu cử gần nhất trước đây vào năm 1990. Sự đa dạng chủng tộc dân cư ở Myanmar đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chính trị, lịch sử và nhân khẩu học của quốc gia này thời hiện đại. Hệ thống chính trị của nước này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang, chính phủ quân sự do Thống tướng Than Shwe lãnh đạo từ năm 1992. Từng là một nước thuộc địa bên trong Đế quốc Anh cho tới tận năm 1948, Myanmar tiếp tục đấu tranh cải thiện những căng thẳng sắc tộc, và vượt qua những cuộc đảo chính. Nền văn hóa nước này bị ảnh hưởng nhiều từ các nước xung quanh, dựa trên một hình thức Phật giáo duy nhất có hòa trộn các yếu tố địa phương.
Các đại biểu được bầu ra trong cuộc bầu cử Quốc hội nhân dân năm 1990 hình thành nên Liên minh Chính phủ Quốc gia Liên bang Miến Điện (NCGUB), một chính phủ hải ngoại vào tháng 12 năm 1990, với trách nhiệm vãn hồi nền dân chủ tại Myanmar. Sein Win, người anh họ của Aung San Suu Kyi, là thủ tướng hiện thời của NCGUB. Tuy nhiên, NCGUB có rất ít quyền lực và đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật tại Myanmar. Lãnh đạo Nhà nước hiện nay là Thống tướng Than Shwe, người giữ chức vụ “Chủ tịch Hội đồng Hòa Bình và Phát triển Quốc gia”. Ông nắm mọi quyền lực quan trọng, gồm quyền bãi nhiệm các bộ trưởng và các thành viên chính phủ, đưa ra các quyết định quan trọng trong vấn đề chính trị đối ngoại. Khin Nyunt từng là thủ tướng cho tới ngày 19 tháng 10 năm 2004, và đã bị thay thế bởi Tướng Soe Win, người có quan hệ mật thiết với Than Shwe. Đa số các bộ và các vị trí chính phủ đều do các sĩ quan quân đội nắm giữ, ngoại trừ Bộ y tế, Bộ giáo dục, Bộ lao động và Bộ kinh tế và kế hoạch quốc gia, do các viên chức dân sự quản lý. Các đảng chính trị lớn ở Myanmar gồm Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ và Liên đoàn Dân tộc Shan vì Dân chủ, dù các hoạt động của họ bị chế độ quản lý chặt chẽ. Nhiều đàng khác, thường đại diện cho lợi ích của các dân tộc thiểu số thực sự có tồn tại.
Về kinh tế: Ở thời thuộc địa Anh, Miến Điện là một trong những nước giàu có nhất vùng Đông Nam Á. Đây là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và là nước cung cấp dầu khí thông qua Công ty Dầu khí Miến Điện. Miến Điện cũng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nhân lực dồi dào. Họ sản xuất 75% lượng gỗ tếch của thế giới, và dân cư có tỷ lệ biết đọc biết viết cao. Nước này từng được tin tưởng sẽ có tương lai phát triển nhanh chóng.
Năm 1989, chính phủ Myanmar bắt đầu bãi bỏ kiểm soát tập trung hóa nền kinh tế và tự do hóa một số lĩnh vực kinh tế. Các ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận như ngọc, dầu khí và lâm nghiệp vẫn bị kiểm soát chặt chẽ. Gần đây những ngành này đã được một số tập đoàn nước ngoài liên doanh cùng chính phủ tham gia khai thác. Trong một thời gian dài, Hoa Kỳ, Canada và Liên minh châu Âu đã áp đặt các lệnh cấm vận thương mại và đầu tư đối với Myanmar. Tuy nhiên, hiện nay, lệnh cấm vận này đã được bãi bỏ. Những năm gần đây, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều nỗ lực phát triển quan hệ với chính phủ nước này vì mục tiêu lợi ích kinh tế, đầu tư nước ngoài vào Myanmar chủ yếu từ Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ và Thái Lan.
Myanmar là một nước giầu tài nguyên, đất đai phì nhiêu với tổng diện tích trồng trọt khoảng 23 triệu héc ta. Nông nghiệp chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu. Từ năm 1988, Myanmar tiến hành cải cách nền kinh tế từ hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trường, ban hành luật đầu tư nước ngoài, cho phép thành lập lại các doanh nghiệp tư nhân. Tăng trưởng GDP từ 1989 đến 1996 lần lượt được cải thiện. Trong 5 năm (1996-2001), GDP của Myanmarphát triển trung bình 6%/năm. Chính phủ đưa ra kế hoạch phát triển kinh tế 10 năm từ 2001-2011 với mức tăng trưởng GDP trung bình là 7,2%/năm. Tăng trưởng kinh tế năm 2004-2005 đạt 4%, giai đoạn 2009- 2011 đạt khoảng 5,5%. Đầu tư nước ngoài hiện có 374 dự án từ 25 nước và lãnh thổ, trong đó đầu tư từ các nước ASEAN là 3,844 tỷ USD chiếm 51,64%. Tổng kim ngạch thương mại chính ngạch giữa Myanmar với các nước năm 2005-2006 đạt khoảng 5,5 tỷ USD, tuy nhiên, đến giai năm 2011 đã tăng vọt, đạt mức 15,041 tỷ USD.
Về điều kiện xã hội: Tiếng Myanmar, tiếng mẹ đẻ của người Bamar và là ngôn ngữ chính thức của Myanmar, về mặt ngôn ngữ học có liên quan tới tiếng Tây Tạng và tiếng Trung Quốc. Nó được viết bằng ký tự gồm các chữ hình tròn và nửa hình tròn, có nguồn gốc từ ký tự Mon. Bảng chữ cái này được phỏng theo ký tự Mon, ký tự Mon được phát triển từ ký tự nam Ấn Độ trong thập niên 700. Những văn bản sớm nhất sử dụng ký tự được biết tới từ thập niên 1000. Ký tự này cũng được sử dụng để viết chữ Pali, ngôn ngữ thiêng liêng của Phật giáo Tiểu thừa. Ký tự Miến Điện cũng được dùng để viết nhiều ngôn ngữ thiểu số khác, gồm Shan, nhiều thổ ngữ Karen và Kayah (Karenni); ngoài ra mỗi ngôn ngữ còn có thêm nhiều ký tự và dấu phụ đặc biệt khác. Tiếng Mayanma sử dụng nhiều từ thể hiện sự kính trọng và phân biệt tuổi tác. Xã hội Myanmar truyền thống rất nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục. Bên trong các ngôi làng, giáo dục do các giáo sĩ truyền dạy thường diễn ra trong các ngôi chùa. Giáo dục trung học và giáo dục cao đẳng/đại học thuộc các trường của chính phủ. Phật giáo được xem là quốc giáo chiếm 89,3% dân số, đạo Cơ đốc 4,9%, Hồi giáo 3,8%.
Mối quan hệ Việt Nam và Myanmar: Myanmar thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với Việt Nam từ ngày 25 tháng 5 năm 1975. Myanmar là một trong số ít nước Việt Nam có quan hệ rất sớm. Chỉ hai năm sau khi Việt Nam giành được độc lập, năm 1947, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã mở Văn phòng Đại diện của mình ở Thủ đô Rangoon (nay là Nay Pyi). Văn phòng Đại diện lúc đó được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ đặc biệt là mua sắm vũ khí và vận chuyển vũ khí, đạn dược về trong nước để phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tháng 11/1954, Thủ tướng U Nu thăm chính thức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tháng 12/1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức Miến Điện. Tháng 12/1957, hai nước thiết lập cơ quan Tổng Lãnh sự và đến tháng 5/1975 thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ, Cơ quan Tổng Lãnh sự trở thành Đại sứ quán đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Miến Điện. Từ đó đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước không ngừng phát triển vì lợi ích của nhân dân Việt Nam và Myanmar, vì hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực Đông Nam Á.
Tháng 5/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Myanmar, tháng 3/1995 Thống tướng Than Shwe thăm Việt Nam. Tháng 5/1997, Tổng bí thư Đỗ Mười thăm Myanmar, tháng 12/1998, Thống thướng Than Shwe dự Hội nghị cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội. Tháng 5/2000, Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Myanmar, tháng 5/2002, Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm chính thức Myanmar và tháng 3/2003, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Myanmar vào tháng 8/2007, Thống tướng Than Shwe thăm chính thức Việt Nam. Qua các chuyến thăm, Lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước đã đặt nền móng vững chắc cho quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc.
Là hai nước thành viên của ASEAN, Việt Nam và Myanmar đã phối hợp và hợp tác với nhau để giữ vững các nguyên tắc của Hiệp hội, tăng cường đoàn kết và nêu cao vai trò đầu tàu của ASEAN trong các thể chế khu vực. Hai nước đang nỗ lực để triển khai các dự án kinh tế và phát triển trong khuôn khổ tiểu vùng như ACMECS, GMS, CLMV.., nhằm giúp các nước trong khu vực tiểu vùng phát triển kinh tế của mình và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN. Đến nay, có thể nói cánh cửa đã mở toang đón luồng gió mới đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới.
Về kết quả hoạt động thương mại, đầu tư song phương:
Quan hệ thương mại Việt Nam – Myanmar kể từ Phiên họp 5 (năm 2009) đến nay đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Sau 3 năm, kim ngạch 2 chiều tăng trưởng gần 170% (từ 99 triê%3ḅu USD năm 2009 lên 167,2 triê%3ḅu USD năm 2011), trong đó kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Myanmar là 84,8 triê%3ḅu USD; kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Myanmar là 82,4 triê%3ḅu USD. Tiềm năng thương mại giữa hai nước là rất lớn trong nhiều lĩnh vực như: nông – lâm nghiệp, dệt may, điện tử, viễn thông, thiết bị điện, y tế – dược phẩm, hàng tiêu dùng. Mục tiêu tăng kim ngạch thương mại song phương từ 167 triệu USD vào năm 2011 lên 500 triệu USD trong thời gian từ nay tới năm 2015.
Về đầu tư song phương, tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam hiện có 5 dự án đầu tư sang Myanmar với tổng vốn đầu tư đạt 20,315 triệu USD, quy mô vốn bình quân 1 dự án là 4,05 triệu USD/dự án. Trong đó, dự án về dầu khí tại vùng biển Tây Nam của Myanmar do Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên (PVEP) liên doanh cùng Eden Group Co., Ltd của Myanmar thực hiện, tổng vốn đăng ký ban đầu là 5,6 triệu USD; Dự án khai thác đá trắng của Công ty Simco Sông Đà, với tổng vốn đầu tư 10 triệu USD. Đây là 02 dự án được phía Myanmar cấp phép chính thức. Ngoài các dự án nêu trên, doanh nghiệp Việt Nam còn một số dự án đang trong giai đoạn nghiên cứu triển khai như: dự án mở đường bay quốc tế và nội địa của Tổng công ty Hàng không Việt Nam (VietnamAirline), dự án mở ngân hàng tại Myanmar của Ngân hàng Đầu tư và phát triển (BIDV), dự án đầu tư mạng viễn thông của Tổng công ty viễn thông quân đội (Viettel).
Đánh giá tiềm năng, cơ hội cho nhà đầu tư Việt Nam: mặc dù kết quả hoạt động thương mại, đầu tư song phương đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng quan hệ kinh tế còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có cũng như mong muốn của Chính phủ và nhân dân hai nước. Qua phân tích tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Myanmar, có thể thấy, tiềm năng đầu tư tại Myanmar là rất lớn. Myanmar là quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản, trữ lượng khí tự nhiên vào hàng thứ 13-14 trên thế giới, là nước có vị trí địa-chính trị khá quan trọng, được các nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản rất quan tâm. Hơn nữa, Việt Nam và Myanmar vốn có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ trong nhiều lĩnh vực. Chính phủ hai nước đặc biệt chú trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư thương mại song phương qua việc đàm phán ký kết nhiều hiệp định hợp tác, biên bản ghi nhớ quan trọng để tạo khung khổ hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tìm hiểu cơ hội hợp tác đầu tư kinh doanh. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc khuyến khích cũng như bảo hộ cho các nhà đầu tư Việt Nam khi tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh tại Myanmar. Có thể điểm qua một số hiệp định quan trọng đã được ký kết sau đây:
– Hiệp định thành lập Ủy ban hỗn hợp về hợp tác song phương giữa hai nước (5/1994);
– Hiệp định Thương mại (5/1994);
– Hiệp định Hợp tác Du lịch (5/1994);
– MOU về Chương trình Hợp tác 6 năm (1994-2000) giữa hai bộ Nông nghiệp (8/1994);
– MOU về Hợp tác Phòng chống ma tuý (3/1995);
– MOU về Hợp tác trong lĩnh vực Lâm nghiệp (3/1995);
– Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần (5/2000);
– Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư (5/2000);
– Hiệp định hợp tác Văn hoá (5/2000);
– MOU về Hợp tác giữa UBDT và Miền núi Việt Nam và Bộ Biên giới, Dân tộc và Phát triển Myanmar (7/2000);
– MOU thành lập Uỷ ban Hợp tác chung về Thương mại (5/2002);
– MOU về Hợp tác giữa hai Phòng Thương mại và Công nghiệp (5/2002);
– MOU về xúc tiến đầu tư do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Bộ Kế hoạch và Phát triển kinh tế quốc gia Myanmar ký kết (4/2010).
Chính phủ hai nước sẽ tiếp tục đẩy nhanh hơn nữa việc hoàn thiện thể chế và cải cách các thủ tục hành chính để tạo môi trường thông thoáng, minh bạch, thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp của Myanmar; đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư và kinh doanh ở Myanmar.Như vậy, có thể thấy, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi khi xâm nhập vào thị trường Myanmar do hai nước có mối quan hệ chính trị tốt đẹp và Myanmar đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế định hướng thị trường, có chính sách khuyến khích khu vực tư nhân phát triển ngoại thương và hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Dù thu nhập bình quân đầu người của người dân Myanmar không cao, nhưng với dân số gần 65 triệu dân, sản xuất trong nước còn hạn chế nên nhu tiêu dùng và sức mua rất lớn. Trong đó, có rất nhiều sản phẩm mà Myanmar có nhu cầu lớn và có thể đầu tư hiệu quả như khai thác khoáng sản, lâm sản, chế biến nông, lâm, thủy sản, chế biến thức ăn gia súc, thức ăn thủy sản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản, đóng tàu, viễn thông, du lịch, các nhà hàng phục vụ món ăn Việt Nam, thủy sản, nhiệt điện… Vì vậy, đây là cơ hội khả quan cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, từ đầu tháng 5/2010, Myanmar là nước duy nhất cấp visa ngay tại cửa khẩu cho công dân từ các nước đến Myanmar. Cụ thể, khách du lịch được cấp phép lưu trú 28 ngày, (không gia hạn), doanh nghiệp được lưu trú 70 ngày (được gia hạn thêm), công vụ 28 ngày (được gia hạn). Đặc biệt, ngoài 4 sân bay nội địa, 2 đường bay quốc tế từ Việt Nam, BangKok, tháng 8 này Myanmar sẽ có thêm đường bay trực tiếp từ Malaysia đến Yangon. 98% người dân theo đạo Phật nên con người ở đây thật thà hiền lành và rất thân thiện, thị trường mới mẻ, yếu tố cạnh tranh không nhiều, tiềm năng kinh tế lớn, tài nguyên thiên nhiêu nhiều nhưng chưa khai thác rộng rãi, mức sống của người dân thấp, người dân hiền hòa… Đặc biệt, doanh nghiệp VN có thể đầu tư vào nhiều lĩnh vực được Chính phủ Myanmar rất khuyến khích, bao gồm:
– Thiết bị và dịch vụ viễn thông;
– Sản xuất máy nông nghiệp;
– Chế biến sản phẩm nông nghiệp, nuôi trồng và chế biến cá nước ngọt;
– Sản xuất sản phẩm nhựa, vật liệu xây dựng như xi măng, thiết bị phòng tắm và gạch ngói.
– Thăm dò và khái thác dầu khí, khoáng sản.
Như vậy, có thể thấy, quan hệ chính trị tốt đẹp, tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước; tiềm năng dồi dào về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Myanmar là những điều kiện thuận lợi mà các doanh nghiệp Việt Nam cần tranh thủ khai thác. Tuy nhiên, để định hướng và thúc đẩy hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang Myanmar, Chính phủ Việt Nam cũng cần tạo điều kiện hơn nữa cho cộng đồng doanh nghiệp hai nước cơ hội trao đổi, tiếp xúc nhằm thúc đẩy quá trình giao thương và đầu tư như tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư ra nước ngoài để doanh nghiệp Việt Nam hiểu hơn về đất nước Myanmar, nhất là những thuận lợi cũng như cơ hội mới khi đầu tư sang thị trường này; tăng cường trao đổi thông tin, tổ chức các hội thảo về đầu tư, phối hợp giải quyết các vướng mắc từ khâu triển khai nghiên cứu thị trường đầu tư cho đến khi cấp phép thực hiện dự án; xây dựng một số chính sách ưu đãi đầu tư đặc thù cho doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mà Myanmar đặc biệt khuyến khích. Với việc hỗ trợ thiết thực của Chính phủ hai nước và sự năng động của các doanh nghiệp Việt Nam, dự báo trong thời gian tới đây, Myanmar sẽ đón nhận một làn sóng đầu tư mạnh mẽ của các nhà đầu tư Việt Nam.
Các văn bản Nhà nước về hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế
Luật Đầu tư nước ngoài và các hiệp định của Chính phủ trong: hợp tác kinh tế , văn hóa và khoa học kỹ thuật giữa Chính phủ với các nước ASIA; thương mại WTO hội nhập kinh tế WTO.
Kết quả
– Về thu hút đầu tư nước ngoài:
+ Kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài từ năm 1988 đến nay, tổng số dự án đăng ký trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (còn hiệu lực) là 4.041 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 31,32 tỷ USD; tổng vốn đầu tư thực hiện là 12,4 tỷ USD, đạt gần 42,4% so với tổng vốn đầu tư đăng ký.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp 23,2% vào GDP của thành phố; 38,6% vào giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố; Giá trị xuất khẩu đạt 5,5 tỷ USD, chiếm 34,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố; Ngoài ra các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 18,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của thành phố; Đóng góp khoảng 13,5% tổng thu ngân sách trên địa bàn.
+ Các quốc gia/ vùng lãnh thổ có vốn đầu tư lớn vào Thành phố Hồ Chí Minh là Singapore; Malaysia; Hồng Kông; Hàn Quốc; Đài Loan …;
+ Các ngành nghề và lĩnh vực có vốn đầu tư mới dẫn đầu tại Thành phố Hồ Chí Minh: hoạt động kinh doanh bất động sản, tư vấn; công nghiệp; thương nghiệp, khách sạn, nhà; vận tải, kho bãi, bưu điện; xây dựng.
– Về đầu tư ra nước ngoài:
+ Chủ yếu các doanh nghiệp Thành phố đầu tư ra nước ngoài tại các nước khối ASIA, hiện tại Vương quốc Campuchia, nước Cộng hoa Dân Chủ Nhân dân Lào có khoảng 70 doanh nghiệp với vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài khoảng 2 nghìn tỷ đồng.
Các nhóm ngành Thành phố khuyến khích phát triển, thu hút đầu tư
– Thành phố khuyến khích phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ: tài chính – tín dụng – ngân hàng – bảo hiểm; thương mại; vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng – hậu cần hàng hải và xuất nhập khẩu; bưu chính – viễn thông và công nghệ thông tin – truyền thông; kinh doanh tài sản – bất động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, khoa học – công nghệ; du lịch; y tế; giáo dục – đào tạo. Bảo đảm khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế trên địa bàn.
– Thành phố cũng khuyến khích phát triển 4 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học – công nghệ và giá trị gia tăng cao: cơ khí, điện tử – công nghệ thông tin, hóa dược – cao su, chế biến tinh lương thực thực phẩm và các ngành công nghệ sinh học, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng, công nghiệp phụ trợ. Đầu tư hiện đại hóa ngành xây dựng sử dụng vật liệu mới, ứng dụng công nghệ xây dựng hiện đại; nâng tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng cao hơn tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp.
– Ngoài ra, Thành phố cũng kêu gọi đầu tư cở sở hạ tầng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng thành phố với định hướng xây dựng hệ thống đường sắt đô thị, phát triển đường vành đai, đường trên cao, đường cao tốc, luồng tàu đường biển, đường sông; cấp nước, thoát nước, chống ngập, xử lý chất thải, hạ tầng năng lượng và hạ tầng viễn thông.. . Khuyến khích tham gia đầu tư xây dựng vào các khu đô thị mới (Tây Bắc, Thủ Thiêm, Cảng Hiệp Phước).
– Trong nông nghiệp, tập trung phát triển nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất giống chất lượng cao. Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,… phát triển các đề án nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nông sản thực phẩm; hỗ trợ các chương trình khuyến nông, chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.
Luật sư tư vấn đầu tư – Văn phòng luật sư Hưng Nguyên – Dự kiến từ ngày 17-24/12/2013, Bộ Công Thương sẽ tổ chức đoàn gồm 15 doanh nghiệp xúc tiến thương mại tại thành phố New Dehli (Ấn Độ) và thành phố Dhaka (Bangladesh). Các doanh nghiệp sau khi được lựa chọn tham gia chương trình sẽ được nhà nước hỗ trợ tiền vé máy bay khứ hồi từ Việt Nam sang Ấn Độ và Bangladesh; và chi phí tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp.
Hoạt động này nằm trong Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia năm 2013.
Các doanh nghiệp tham gia lần này tập trung vào các ngành hàng như điện thoại các loại và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng, cao su, cà phê, hạt tiêu, dược phẩm, xơ, sợi dệt các loại, hạt điều, chất dẻo, thức ăn gia súc và nguyên liệu, ngô, bông, xi măng, clinker, hoá chất, nguyên phụ liệu dệt may da giày… Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam mà hai thị trường này có nhu cầu cao.
Hiện Ấn Độ là thị trường lớn nhất của Việt Nam tại khu vực Nam Á và cũng là đối tác thương mại lớn thứ 6 của Việt Nam. Kể từ sau khi Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN – Ấn Độ (AITIG) được ký kết vào năm 2009. Năm 2012, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Ấn Độ đạt gần 4 tỷ USD, trong đó, Việt Nam xuất khẩu đạt 1,8 tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,2 tỷ USD.
Cà phê là một trong những sản phẩm chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Ấn Độ và Bangladesh
Ấn Độ đang tích cực triển khai chính sách “Hướng Đông” nhằm tăng cường quan hệ với các nước thuộc khu vực Đông Á, đặc biệt là khu vực ASEAN. Hai nước Việt Nam – Ấn Độ đang từng bước phấn đấu đạt được mục tiêu kim ngạch thương mại hai chiều lên 7 tỷ USD.
Trong khi đó, Bangladesh là thị trường có nhiều tiềm năng tại khu vực Nam Á, với dân số trên 160 triệu người và sức tiêu thụ lớn.
Trong cơ cấu ngoại thương với Bangladesh, Việt Nam luôn ở thế xuất siêu. Năm 2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Bangladesh đạt gần 390 triệu USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt xấp xỉ 353 triệu USD và nhập khẩu đạt 36 triệu USD.
Mặc dù giữa Việt Nam và Bangladesh có nhiều điểm tương đồng trong cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu, song vẫn còn nhiều lĩnh vực ngành hàng có thể bổ sung cho nhau từ hàng hoá phục vụ sản xuất tới tiêu dùng dân sinh.
Được biết, trong chương trình công tác tại Ấn Độ và Bangladesh, Bộ Công thương sẽ phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam – Ấn Độ tại thành phố New Dehli và Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam – Bangladesh tại thành phố Dhaka.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương sẽ tổ chức cho đoàn doanh nghiệp Việt Nam tham quan Hội chợ Thương mại ASEAN- Ấn Độ (IABF) với sự tham gia của Ấn Độ và 10 nước ASEAN. Đây là những cơ hội tốt để các doanh nghiệp trực tiếp gặp gỡ, thảo luận, tiến hành giao thương, tìm kiếm các cơ hội hợp tác với các đối tác Ấn Độ và Bangladesh nhằm thiết lập quan hệ làm ăn và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang những thị trường này.
Các doanh nghiệp sau khi được lựa chọn tham gia chương trình sẽ được nhà nước hỗ trợ tiền vé máy bay khứ hồi từ Việt Nam sang Ấn Độ và Bangladesh; và chi phí tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp. Các chi phí khác bao gồm: lệ phí visa, tiền khách sạn, tiền ăn uống, xe ô tô đi lại, lệ phí tham quan các sự kiện thương mại, các chi phí phát sinh khác theo yêu cầu của doanh nghiệp… trong thời gian làm việc tại Ấn Độ và Bangladesh do doanh nghiệp tự chi trả.
Các doanh nghiệp quan tâm, gửi hồ sơ đăng ký tham gia gồm:
– Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (sao y bản chính, đóng dấu đơn vị)
– Báo cáo hoạt động kinh doanh trong 2 năm gần đây của doanh nghiệp
– Đơn đăng ký tham gia (theo mẫu gửi kèm)
– Quyết định cử nhân sự tham gia Chương trình
– Hộ chiếu của người tham gia còn hiệu lực kèm 04 ảnh 4×6, tiền đặt cọc thuê khách sạn và lệ phí visa là 500 USD
Hồ sơ gửi trước thứ 6, ngày 23/ 8/2013, theo địa chỉ sau:
Vụ Thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á – Bộ Công Thương
Hướng dẫn trình tự thủ tục các bước thực hiện dự án đầu tư trong nước
Bước 1: Chủ trương và địa điểm đầu tư
Trước khi tiến hành lập dự án, Chủ đầu tư cần đề nghị Ủy ban Nhân dân tỉnh cho chủ trương đầu tư và xác định địa điểm đầu tư.
Hồ sơ gồm 06 bộ gửi về Sở Kế hoạch và Đầu tư; cụ thể:
-Tờ trình đề nghị cho chủ trương đầu tư và xác định địa điểm đầu tư; (gửi: UBND tỉnh và Sở Kế hoạch và Đầu tư).
-Bản thuyết minh trình bày ý tưởng đầu tư, trong đó cần thể hiện được các nội dung sau:
+Mục tiêu, quy mô đầu tư, công nghệ áp dụng.
+Địa điểm, diện tích đất dự kiến sử dụng.
+Tổng vốn đầu tư, thời hạn hoạt động, tiến độ dự kiến thực hiện.
+Sự phù hợp với quy hoạch, tính khả thi của dự án.
-Bản sao Giấy phép đăng ký kinh doanh.
-Đối với địa điểm đã được xác định trong quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000 hoặc tỷ lệ 1/500 được cấp có thẩm quyền phê duyệt; các dự án xây dựng mới, mở rộng cải tạo mà phù hợp với quy hoạch thì không phải lập hồ sơ địa điểm xây dựng. Sau khi có chủ trương của UBND tỉnh cho phép nghiên cứu đầu tư xây dựng, chủ đầu tư tiến hành lập lập và trình duyệt quy hoạch chi tiết tổng mặt bằng xây dựng tỷ lệ 1/500 theo quy định tại phần Hướng dẫn thủ tục thẩm định Quy hoạch TMB dự án.
– Đối với địa điểm chưa xác định trong quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000 hoặc tỷ lệ 1/500 thì chủ đầu tư phải lập Sơ đồ địa điểm (Sơ đồ địa điểm phải xác định sơ bộ về vị trí, ranh giới, hiện trạng và các dự án quy hoạch liền kề). (Sơ đồ thể hiện dưới dạng Bản đồ tỷ lệ 1/2000, 1/5000; 1/10000; 1/20000; đánh dấu vị trí dự kiến thực hiện dự án).
Sau khi nhận được hồ sơ, Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ chủ trì, phối hợp với các ngành, địa phương liên quan xem xét, trình UBND tỉnh cho chủ trương đầu tư và phê duyệt địa điểm đầu tư. Bước 2 . Đăng ký, cấp Giấy chứng nhận đầu tư
1. Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối hướng dẫn, tiếp nhận, trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư.
2. Nội dung hồ sơ gồm :
– Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ Việt Nam đồng, nếu nhà đầu tư có nhu cầu được xác nhận ưu đãi đầu tư, đăng ký đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư thì thực hiện theo Điều 43 của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP.
– Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ Việt Nam đồng đến dưới 300 tỷ Việt Nam đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện, nếu nhà đầu tư có yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đầu tư hoặc xác nhận ưu đãi đầu tư thìthực hiện theo Điều 43 của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP.
– Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô vốn đầu tư dưới 300 tỷ Việt Nam đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thực hiện theo Điều 44 của Nghị định số108/2006/NĐ-CP.
3. Quy trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư, điều chỉnh bổ sung Giấy chứng nhận đầu tư.
Bộ phận “một cửa liên thông” tiếp nhận, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và trao giấy biên nhận ngay sau khi nhận được văn bản đăng ký đầu tư, đảm bảo thời gian xem xét, lấy ý kiến và trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư, điều chỉnh bổ sung Giấy chứng nhận đầu tư không vượt quá 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến các Sở, Ban, Ngành liên quan (trong trường hợp cần thiết). Các cơ quan được hỏi có ý kiến trả lời bằng văn bản và chịu trách nhiệm về những vấn đề của dự án thuộc chức năng quản lý của mình trong thời hạn 05 ngày làm việc.
Sở Kế hoạch và Đầu tư lập báo cáo trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Uỷ ban Nhân dân tỉnh xem xét cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Tờ trình đề nghị cấp Giấy chứng nhận đầu tư của Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Thẩm tra, cấp Giấy chứng nhận đầu tư
1. Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối hướng dẫn, tiếp nhận, thẩm tra, trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư.
2. Nội dung hồ sơ thẩm tra gồm:
– Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ Việt Nam đồng trở lên và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thực hiện theo Điều 45 của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP.
– Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư dưới 300 tỷ Việt Nam đồng và thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thực hiện theo Điều 46 của Nghị định số108/2006/NĐ-CP.
– Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ Việt Nam đồng trở lên và thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thực hiện theo Điều 47 của Nghị định 108/2006/NĐ –CP.
3. Quy trình thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư, điều chỉnh bổ sung Giấy chứng nhận đầu tư.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan tiếp nhận hồ sơ kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và gửi hồ sơ lấy ý kiến thẩm tra của Sở, Ngành liên quan; trường hợp cần thiết thì gửi hồ sơ lấy ý kiến các Bộ, Ngành liên quan. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư biết để sửa đổi, bổ sung hồ sơ.
Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan được hỏi có ý kiến thẩm tra bằng văn bản và chịu trách nhiệm về những vấn đề của dự án thuộc chức năng quản lý của mình.
Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Kế hoạch và Đầu tư lập báo cáo thẩm tra, trình Uỷ ban Nhân dân Tỉnh cấp Giấy chứng nhận.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ (đối với trường hợp dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ), Uỷ ban Nhân dân Tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Trường hợp dự án đầu tư không được chấp thuận, cơ quan tiếp nhận hồ sơ dự án đầu tư gửi thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư, trong đó nêu rõ lý do.
Bước 3. Thẩm định thiết kế cơ sở; Thẩm định phê duyệt quy hoạch tổng mặt bằng dự án
Sau khi có chủ trương chấp thuận đầu tư của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, nhà đầu tư mang hồ sơ (thiết kế cơ sở, quy hoạch tổng mặt bằng) đến nộp tại bộ phận “một cửa liên thông”. Bộ phận “một cửa liên thông” có trách nhiệm chuyển hồ sơ đến Sở Xây dựng và Sở chuyên ngành. Đơn vị tiếp nhận hồ sơ sẽ xem xét, lấy ý kiến các ngành liên quan (nếu cần thiết), thẩm định trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh quyết định và chuyển, trả hồ sơ tại bộ phận “một cửa liên thông”.
Nội dung, trình tự, thời gian xem xét và thẩm định thực hiện theo Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày ngày 10 tháng 02 năm 2009 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và các Quy định hiện hành của Uỷ ban Nhân dân tỉnh.
Trường hợp thiết kế cơ sở chưa đủ điều kiện để phê duyệt dự án theo quy định, cơ quan chủ trì thẩm định phải thông báo kết quả thẩm định bằng văn bản (chỉ một lần), văn bản thẩm định phải rõ nội dung những vấn đề đồng ý, những vấn đề không đồng ý, những nội dung cần bổ sung hoàn chỉnh và gửi cho chủ đầu tư để bổ sung hoàn thiện trình cơ quan thẩm định thiết kế cơ sở đóng dấu xác nhận hồ sơ đã thẩm định trước khi phê duyệt dự án.
Bước 4. Thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường
Nhà đầu tư mang hồ sơ đến nộp tại Sở Kế hoạch và Đầu tư (bộ phận “một cửa liên thông”). Bộ phận “một cửa liên thông” có trách nhiệm chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền trực tiếp giải quyết hoặc lấy ý kiến các ngành liên quan (nếu cần thiết), thẩm định trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh xem xét quyết định (theo phân cấp thẩm quyền được pháp luật quy định).
Nội dung, trình tự, thời gian xem xét và thẩm định thực hiện theo Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/08/2006 củaChính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Môi trường và Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08/9/2006 về «Hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường».
(Nhà đầu tư có thể nộp Hồ sơ Báo cáo đánh giá tác động môi trường đồng thời với Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đầu tư).
Bước 5. Giao đất; cho thuê đất (đối với dự án có nhu cầu thuê đất)
Sau khi được chấp thuận chủ trương, Giấy chứng nhận đầu tư và có quyết định phê duyệt địa điểm, phê duyệt quy hoạch tổng mặt bằng, phê duyệt thiết kế cơ sở, nhà đầu tư nộp hồ sơ xin giao đất và cho thuê đất tại bộ phận “một cửa liên thông”. Bộ phận “một cửa liên thông” có trách nhiệm chuyển hồ sơ đến Sở Tài nguyên và Môi trường. Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ xem xét, lấy ý kiến các ngành liên quan (nếu cần thiết), thẩm định trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh xem xét quyết định và chuyển, trả hồ sơ tại bộ phận “một cửa liên thông”.
Nội dung, trình tự, thời gian xem xét và thẩm định thực hiện theo các Quy định hiện hành của Nhà nước và Uỷ ban Nhân dân tỉnh.
Công ty luật Hưng Nguyên – Công ty luật tại hà nội,
Luật sư tư vấn đầu tư – Dầu khí, viễn thông, ngân hàng… là những lĩnh vực đang được các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 71/2013/NĐ-CP về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Theo đó, kể từ ngày 1/9/2013, Nhà nước chỉ đầu tư dự án, công trình quan trọng tại doanh nghiệp trong trường hợp dự án có tổng vốn đầu tư từ 35.000 tỷ đồng trở lên, trong đó vốn nhà nước từ 11.000 tỷ đồng trở lên.
PVN là một trong những doanh nghiệp đang đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài để khai thác dầu khí
Đối với dự án, công trình trọng điểm của quốc gia đầu tư ra nước ngoài có tổng vốn đầu tư ra nước ngoài từ 20.000 tỷ đồng trở lên, trong đó vốn nhà nước đầu tư ra nước ngoài từ 7.000 tỷ đồng trở lên; dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định; dự án đặc biệt quan trọng khác do Thủ tướng quyết định mới được Nhà nước đầu tư vốn cũng được Nhà nước đầu tư vốn.
Nhà nước cũng đầu tư vốn đối với dự án, công trình có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, gồm nhà máy điện hạt nhân; dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học từ 50 ha trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50 ha trở lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng lấn biển, bảo vệ môi trường từ 500 ha trở lên; rừng sản xuất từ 1.000 hécta ha trở lên.
Dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước 2 – 3 vụ/năm với quy mô từ 500 ha trở lên; dự án, công trình phải di dân tái định cư từ 20.000 người trở lên ở miền núi, từ 50.000 người trở lên ở các vùng khác; dự án, công trình đầu tư tại địa bàn có di tích quốc gia có giá trị đặc biệt quan trọng về lịch sử, văn hóa; danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia cũng thuộc loại được Nhà nước đầu tư vốn.
Ngoài ra, Nhà nước cũng đầu tư vốn vào dự án, công trình đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh; và dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt.
Cũng kể từ ngày 1/9/2013, Nhà nước chỉ đầu tư vốn để thành lập mới doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ đối với những ngành, lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội, trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng; ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi đầu tư lớn; địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Việc bổ sung vốn chỉ thực hiện đối với doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn theo tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ nhưng chưa được Nhà nước đầu tư đủ vốn điều lệ.
Nghị định 71/2013/NĐ-CP cũng quy định, việc đầu tư bổ sung vốn nhà nước để duy trì hoặc tăng tỷ lệ vốn nhà nước đang tham gia tại doanh nghiệp gồm, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng; doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế ngành, lãnh thổ và thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong từng thời kỳ.
Việc mua lại một phần vốn hoặc toàn bộ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong từng thời kỳ.
Công ty luật Hà Nội – Đã qua thời các Cty đa quốc gia tìm kiếm cơ hội đầu tư, mà thay vào đó là các DNNVV của Nhật mở rộng đối tác ngoài nước. DĐDN đã có cuộc trò chuyện với ông Kondoh – Tổng giám đốc Cty TNHH Brainworks Asia, một DN 100% vốn Nhật bản chuyên hỗ trợ và xúc tiến thương mại đầu tư cho các DN Nhật Bản về xu hướng này.
– Là một nhà tư vấn kinh doanh, đầu tư và cũng là một doanh nhân đến VN làm ăn khá sớm, ông có thể cho biết môi trường đầu tư VN như thế nào so các quốc gia khác trong khu vực ?
Singapore, quốc gia nằm không xa VN lắm, có thể được xem là nơi lý tưởng nhất cho vốn đầu tư nước ngoài do điều kiện và môi trường kinh doanh thông thoáng. DN Nhật Bản thường có khuynh hướng lấy Singapore làm mẫu để so sánh với các quốc gia Đông Nam Á khác vì chúng nằm gần nhau.
Chúng tôi không kỳ vọng các bạn sẽ đạt được chuẩn như Singapore, nhưng chúng tôi thiết nghĩ VN cần sớm sửa đổi một số luật có liên quan để tăng cường tính minh bạch nhằm thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư từ các Cty nước ngoài.
Đối với các Cty Nhật Bản, Thái Lan và Campuchia được xem là hai nơi có điều kiện kinh doanh thuận lợi hơn. Hệ thống giao thông đường sắt ít và kém hiệu quả là một trong những bất lợi lớn của VN nếu so với các nước khác trong khu vực như Thái Lan.
Hệ thống giao thông đường sắt ít và kém hiệu quả là một trong những bất lợi lớn của VN.
VN là quốc gia có dân số đông thứ nhì và tỉ lệ lao động trẻ cũng khá cao so với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Do dân số vẫn còn tiếp tục tăng trong những năm sắp tới nên thị trường tiêu thụ theo dự báo sẽ tiếp tục được mở rộng. Thêm vào đó, tốc độ phát triển kinh tế cũng khá nhanh và đang đuổi theo Thái Lan. Có thể khẳng định rằng chúng tôi không những chỉ quan tâm rất nhiều đến khu vực sản xuất của VN mà còn rất quan tâm đến quy mô và tiềm năng của thị trường. Việc thúc đẩy và củng cố mối quan hệ giữa VN và Nhật Bản đang tiến triển khá tốt ở thời điểm hiện tại. Các DN Nhật hiện đang hướng sự chú ý vào thị trường VN.
– Quay trở lại Cần Thơ lần thứ hai, dưới góc độ của nhà tư vấn, ông có kế hoạch gì cho việc hợp tác và kêu gọi các DN Nhật đến Cần Thơ?
Trước tiên, việc cần làm ngay là làm thế nào để cho người dân và DN Nhật Bản biết về sự hấp dẫn của Cần Thơ và nhu cầu đầu tư là gì. Thực tế là hầu hết người dân và DN Nhật không biết nhiều về Cần Thơ, thậm chí là về VN. Cần Thơ cần phải có nhiều hoạt động PR để quảng bá hình ảnh cho mọi người. Thứ hai, sẽ dễ dàng và thuận tiện hơn cho DN Nhật Bản bắt đầu hoạt động kinh doanh nếu Cần Thơ giới thiệu được những DN đi trước làm ăn thành công ở địa phương hoặc là những kinh nghiệm đầu tư thành công trong những năm qua ở địa phương. Cần Thơ cũng cần phải tham khảo và trao đổi nhiều hơn nữa với các DN đầu tư nước ngoài để biết thêm về những trải nghiệm nhằm phát triển một môi trường thông thoáng hơn cho đầu tư nước ngoài và cũng là tạo tiền đề và cơ hội cho người dân Nhật đến tham quan và đầu tư vào Cần Thơ.
DN Nhật thường rất quan tâm đầu tư vào những lĩnh vực như nông nghiệp, thủy sản, nhà hàng, bán lẻ, sản xuất, sản xuất bánh kẹo, xây dựng và tiện nghi cho ngành du lịch…
Công ty luật Hà Nội tư vấn luật lĩnh vực đầu tư cho cách doanh nghiệp Việt Nam
Đầu tư sang Campuchia và Lào
Theo công bố của Bộ Kế hoạch – đầu tư VN tại hội nghị, số lượng giấy phép đầu tư VN sang Campuchia đã tăng mạnh từ 56 dự án năm 2009 lên 112 dự án sáu tháng đầu năm nay, với tổng vốn đầu tư lên đến 2,36 tỉ USD.
Campuchia hiện đứng thứ hai trong tổng số 60 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp VN, chủ yếu ở các lĩnh vực nông – lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp, viễn thông, hàng không, ngân hàng, khoáng sản… Hiện các dự án của doanh nghiệp VN tại Campuchia đã tạo việc làm ổn định cho hàng vạn lao động nước này.
Sau 3 năm xúc tiến đầu tư vào Campuchia, hoạt động đầu tư, thương mại và du lịch giữa hai nước đã đạt được những kết quả lớn. Năm 2011, Việt Nam có 90 dự án đầu tư tại Campuchia với số vốn đầu tư gần 2 tỷ USD. Năm 2012, mặc dù, chịu tác động từ những khó khăn chung của kinh tế thế giới, số dự án đầu tư của Việt Nam tiếp tục tăng đưa tổng số dự án đầu tư lên 124 với tổng vốn đầu tư đạt 2,5 tỷ USD, gấp 4,4 lần so với năm 2009, thuộc top 5 nhà đầu tư lớn nhất tại nước bạn.
Về thương mại, năm 2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Campuchia ước đạt 3,3 tỷ USD, tăng 17,8% so với năm 2011. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Campuchia sang Việt Nam đạt 420 triệu USD (tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2011), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia đạt 2,52 tỷ USD (tăng 17,7% so với cùng kỳ năm 2011), giữ vị trí số hai trong số hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Campuchia.
Hoạt động du lịch cũng đạt được những tín hiệu tích cực. Năm 2011, lượng khách du lịch Việt Nam sang Campuchia là 600.000 lượt người, tăng 34% so với năm 2010. Trong 10 tháng đầu năm 2012, có 638.000 lượt khách du lịch Việt Nam đến Campuchia (tăng 24% so với cùng kỳ và lớn hơn 6,3% so với cả năm 2011, chiếm 22,3% lượng khách du lịch quốc tế đến Campuchia). Dự báo năm 2012 sẽ đạt trên 750.000 lượt khách, tăng 25% so với năm 2011. Việt Nam tiếp tục đứng thứ nhất về lượng khách du lịch đến Campuchia.
Doanh nghiệp Việt triển khai các dự án đúng tiến độ cam kết, trong 3 năm đã đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của Campuchia khoảng 5% GDP, đóng góp vào thu ngân sách Campuchia hàng trăm triệu USD và tạo việc làm cho trên 3 vạn lao động, tăng lượng khách du lịch của Campuchia (bình quân 36% một năm).
Công tác an sinh xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia cũng được thực hiện liên tục, hiệu quả. AVIC với vai trò đầu mối đã kêu gọi, vận động, phối hợp với hội viên tổ chức, tham gia nhiều chương trình an sinh xã hội thiết thực với tổng số tiền đạt khoảng 30 triệu USD. Một số dự án điển hình như xây dựng trường học khu vực biển Hồ, xây dựng trường học cấp 3 Om bachok, trường đào tạo nghề cho học viên nữ, trường mầm non cho Thủ đô PhnomPenh, hỗ trợ nguồn kinh phí cho Hội chữ thập đỏ Campuchia…
Luật sư tư vấn – Văn phòng luật sư Hà Nội – Công ty luật Hưng Nguyên cung cấp thông tin thêm về dịch vụ của ngân hàng Sacombank
Sacombank nhận chuyển vốn đầu tư sang Lào và Campuchia với mức phí ưu đãi
Có nhiều hình thức chuyển tiền phù hợp với các mục đích, nhu cầu đa dạng của quý khách hàng
Được tư vấn dịch vụ miễn phí
Thủ tục đơn giản
Tiết kiệm chi phí, thời gian
Đầu tư sang Lào – Campuchia cần lưu ý điều gì?
Thông báo cho biết, mới đây, Chính phủ Lào và Campuchia đã điều chỉnh một số chính sách đầu tư nước ngoài mới, đặc biệt các chính sách đất đai cho dự án. Các quy định mới này sẽ có tác động nhất định tới các dự án của nhà đầu tư Việt Nam.
Cụ thể, ngày 11/6/2012, Thủ tướng Chính phủ Lào đã ban hành Chỉ thị số 13 về việc dừng xem xét và cấp phép dự án đầu tư mới vào lĩnh vực tìm kiếm và khảo sát khoáng sản, dự án trồng cao su và bạch đàn trong toàn quốc để nhằm kiểm tra, đánh giá lại việc tổ chức thực hiện và thúc đẩy các dự án đã được Chính phủ cấp phép, nghiêm chỉnh tiến hành các bước theo quy định của pháp luật và hợp đồng.
Trong khi đó, ngày 7/5/2010, Thủ tướng Campuchia đã ban hành Sắc lệnh số 01 về việc Chính phủ Campuchia sẽ tạm dừng việc giao đất trồng cao su, khẳng định không giao đất thêm cho các dự án mới đến ngày 21/12/2015. Ngày 4/9/2012, cơ quan chức năng của Campuchia cũng ra thông báo tạm ngưng việc khai thác gỗ tại tất cả các khu vực đất tô nhượng kinh tế có diện tích rừng già hoặc khu vực bảo tồn và khu vực rừng giữ lại, ngoại trừ trường hợp có quyết định của Chính phủ nước này.
Các chính sách mới nêu trên của Chính phủ Lào, Campuchia có thể ảnh hưởng trực tiếp tới các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam, mới đây, ngày 03 tháng 8 năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức buổi họp với các doanh nghiệp Việt Nam để quán triệt một số nội dung liên quan đến chính sách mới của Lào và Campuchia trong lĩnh vực trồng cây công nghiệp và khoáng sản. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư đồng thời phòng tránh những rủi ro pháp lý cho dự án thì rất cần sự chủ động, tích cực từ phía các doanh nhiệp Việt Nam đối với các nội dung sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam triển khai thực hiện dự án phải theo đúng tiến độ, mục tiêu quy định trong Giấy CNĐTRNN do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cấp; các nội dung quy định trong các văn bản pháp lý, các Giấy phép được chính quyền nước sở tại cấp cho nhà đầu tư; phải tuân thủ chặt chẽ luật pháp của Việt Nam và luật pháp nước sở tại;
Thứ hai, đối với các dự án trồng cây công nghiệp, trong bối cảnh phía Lào, Campuchia đang hạn chế việc giao đất, nhà đầu tư Việt Nam cần chủ động rà soát và nghiên cứu kỹ lưỡng các thủ tục giao đất theo quy định của nước sở tại để đảm bảo tính pháp lý chặt chẽ của dự án;
Thứ ba, nhà đầu tư Việt Nam cần lưu ý việc tập hợp và lưu lại các chứng từ liên quan đến các hoạt động chi phí vật tư, hàng hóa, nguyên liệu đưa từ Việt Nam sang Campuchia phục vụ cho dự án để bảo đảm quyền lợi của mình;
Thứ tư, Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Lào, Campuchia cần phát huy vai trò hỗ trợ nhà đầu tư Việt Nam trong việc triển khai thực hiện dự án đầu tư, kịp thời nắm bắt các vướng mắc liên quan đến dự án và có kiến nghị với các cơ quan chức năng của Lào, Campuchia và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư Việt Nam;
Thứ năm, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam cần tiến hành rà soát tất cả các dự án đầu tư trong lĩnh vực trồng cây cao su và cây công nghiệp đã được Bộ Nông, lâm, ngư nghiệp Campuchia ký hợp đồng với các doanh nghiệp Việt Nam, đảm bảo thực hiện Thỏa thuận ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Campuchia, với Chính phủ Lào về Hợp tác đầu tư trồng mới 100.000 ha cao su;
Thứ sáu, trong quá trình triển khai thực hiện dự án, trường hợp gặp khó khăn vướng mắc, doanh nghiệp cần kịp thời báo cáo tới các Bộ, ngành để có phương án tháo gỡ, hỗ trợ cho doanh nghiệp.
Chính sách thuế và thuế suất
Chính phủ Campuchia đã loại bỏ hầu hết các rào cản phi thuế quan và các giấy phép nhập khẩu.
Thuế hải quan:
Về nguyên tắc, tất cả các hàng hóa nhập hay xuất đi từ Campuchia đều phải chịu các loại thuế xuất nhập khẩu theo quy định của Tổng cục Hải quan và chịu thuế tiêu thụ.
Thuế nhập khẩu:
Thuế nhập khẩu được thu tại bất cứ điểm vào hay ra của tất cả hàng hóa qua biên giới, trừ những hàng hóa đặc biệt được miễn thuế hải quan theo luật hay hàng hóa của các cơ quan đặc biệt.
Thuế giữ lại cổ tức được tính đối với các cổ tức phát cho cổ đông trong nước và nước ngoài với tỷ lệ tương đương mức thuế lợi nhuận của doanh nghiệp.
Thuế xuất khẩu:
Hiện Campuchia không đánh thuế xuất khẩu, chỉ trừ loại thuế đánh vào các sản phẩm xuất khẩu hạn chế như gỗ, gỗ xẻ, gỗ cây, kim loại và đá quý hiếm, hải sản và đồ cổ.
Hồ sơ nhập và xuất khẩu
Hải quan Campuchia yêu cầu người nhập khẩu và xuất khẩu phải xuất trình vận đơn và hóa đơn cho tất cả các chuyến hàng. Hàng hóa được vận tải bằng tàu qua Việt Nam đi bằng đường sông Mekong cũng phải có giấy phép quá cảnh.
Các yêu cầu về nhãn mác
Hiện Campuchia không có yêu cầu nào về nhãn mác.
Tiêu chuẩn
CAMCONTROL là đơn vị thuộc Bộ Thương mại phụ trách việc đề ra các tiêu chuẩn. CAMCONTROL cấp các giấy tờ và chứng nhận các sản phẩm xuất khẩu và xác nhận về chất lượng của các sản phẩm dịch vụ.
Thủ tục thành lập công ty tại Campuchia
Các thủ tục, giấy tờ xin mở công ty, chi nhánh, văn phòng đại diện công ty Việt Nam tại Campuchia:
A. Các giấy tờ cần thiết xin thành lập công ty Việt Nam tại Campuchia:
1. Đơn xin thành lập công ty tại Campuchia (theo mẫu của Bộ Thương mại Campuchia);
2. Hợp đồng thuê nhà tại Campuchia (tiếng Khmer hoặc tiếng Anh);
3. Giấy chứng nhận mở tài khoản ngân hàng tại Campuchia;
4. Photo hộ chiếu có visa và 03 ảnh chụp 4×6 của người đứng tên giám đốc công ty
5. Đơn xin đăng ký tên công ty vào danh sách các công ty tại Bộ Thương mại Campuchia (theo mẫu của Bộ Thương mại Campuchia);
6. Nộp lệ phí xin mở công ty theo quy định của Bộ Thương mại Campuchia;
7. Đơn khẳng định không phải là công chức nhà nước, không phạm tội (theo mẫu). Thời gian nhận kết quả khoảng 5 ngày làm việc, hồ sơ xin thành lập công ty nộp tại Bộ Thương mại Campuchia, Cục Đăng ký thương mại.
B. Các giấy tờ cần thiết xin thành lập chi nhánh công ty, văn phòng đại diện công ty Việt Nam tại Campuchia:
1. Đơn xin thành lập chi nhánh văn phòng đại diện công ty tại Campuchia (theo mẫu của Bộ Thương mại Campuchia);
2. Hợp đồng thuê nhà tại Campuchia (tiếng Khmer hoặc tiếng Anh);
3. Dịch công chứng ra tiếng Anh toàn bộ giấy tờ của công ty gốc tại Việt Nam, bao gồm: Điều lệ công ty,Giấy thành lập công ty, Chứng nhận ngành nghề đăng ký kinh doanh…
4. Photo hộ chiếu có visa và 03 ảnh chụp 4×6 của người đứng tên làm trưởng chi nhánh hoặc văn phòng đại diện công ty vào danh sách các công ty tại Bộ Thương mại Campuchia.
5. Nộp lệ phí xin mở chi nhánh, văn phòng đại diện công ty theo quy định của Bộ Thương mại Campuchia. Thời gian nhận kết quả khoảng 05 ngày làm việc, hồ sơ xin thành lập chi nhánh hoặc văn phòng đại diện Công ty nộp tại Bộ Thương mại Campuchia, Cục Đăng ký thương mại.