Tư vấn pháp luật tranh chấp thừa kế

Xin chào Luật sư, tôi có câu hỏi cần Luật sư tư vấn như sau:

Gia đình Mẹ chồng tôi có 3 anh em gồm 2 bác trai và mẹ chồng tôi. Nhưng 2 bác đã thoát li quê hương vào nam sinh sống hơn 30 năm, mọi việc ở quê nhà chăm nom nuôi dưỡng bà ngoại, giữ đất đều là do mẹ tôi lo liệu. Ngày trước 2 bác ấy đã hứa là nhường hết đất đai ở quê cho mẹ tôi nhưng không có giấy tờ chứng minh. Nay có đường quốc lộ chạy qua phần đất nên đất lên giá, 2 bác ý lại đòi về chia lại.

Vậy tôi xin hỏi luật sư là 2 bác ấy đã thoát li hơn 30 năm rồi liệu có quyền về đòi chia tài sản không? mong Luật sư trả lời sớm giúp tôi Tôi xin chân thành cảm ơn!

 

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Hưng Nguyên. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

Vào thời điểm cách đây 30 năm trước, tức là trước năm 1993: khi đó trường hợp của bạn sẽ áp dụng quy định tại Luật đất đai năm 1987. Tại Điều 5 có quy định như sau:

“Điều 5

Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn, chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức, nhận đất được giao mà không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, tự tiện sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm huỷ hoại đất đai.”

Theo quy định trong thời kỳ này thì không được phép thực hiện giao dịch đối với quyền sử dụng đất. Do đó, kể cả khi hai bác đã hứa nhường lại hết đất đai ở quê cho mẹ bạn thì cũng sẽ không có hiệu lực và vào thời điểm đó, mảnh đất này vẫn thuộc sở hữu của hai bác của bạn.

Tuy nhiên, bởi vì trong suốt khoảng thời gian 30 năm qua, hai bác của bạn đã thoát li quê hương và mọi việc ở quê nhà chăm nom nuôi dưỡng bà ngoại, giữ đất đều là do mẹ của bạn lo liệu nên căn cứ theo Khoản 1 Điều 100 và Điều 101 Luật Đất đai năm 2013:

“Điều 100. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất

  1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
  2. a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
  3. b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
  4. c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;
  5. d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

  1. e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;
  2. g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.”

 “Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

  1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
  2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”

            Theo quy định trên, nếu gia đình bạn sử dụng đất đai ổn định, lâu dài và không có tranh chấp từ trước ngày 15/10/1993, không có một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013 thì có thể áp dụng Điều 101 Luật Đất đai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất nếu thuộc một trong hai trường hợp sau:

Thứ nhất, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật Đất đai 2013 có hiệu lực, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người sử dụng đất ổn đinh, không có tranh chấp.

Hộ gia đình, cá nhân đã được sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật đất đai, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt với nơi đã có quy hoạch.

Thứ hai, việc chiếm hữu đất trên 30 năm mà xảy ra tranh chấp thì tùy từng trường hợp người chiếm hữu sẽ được công nhận quyền sử dụng đất. Cụ thể, pháp luật có quy định về công nhận quyền sử dụng đất cho người chiềm hữu ngay tình tức là người chiếm hữu không biết hoặc không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật (trong trường hợp của mẹ bạn khi được hai bác hứa nhường lại toàn bộ đất đai cho mẹ bạn có nghĩa là mẹ bạn không biết đây là trường hợp vi phạm pháp luật lúc bấy giờ) tại Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015 theo đó người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai một bất động sản trong thời hạn 30 năm thì trở thành chủ sở hữu của bất động sản đó.

Ngoài ra, người chiếm hữu cần lưu ý rằng giấy tờ, biên lai nộp thuế sử dụng đất không phải là căn cứ xác minh quyền sử dụng đất bởi vì việc nộp thuế sử dụng đất được áp dụng không những cho các chủ thể sử dụng đất hợp pháp mà còn cho các chủ thể bất hợp pháp. Tuy nhiên, khi phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất, người chiếm hữu ngay tình có thể sử dụng giấy tờ, biên lai nộp thuế sử dụng đất như là bằng chứng để chứng minh cho việc mình đã sử dụng đất lâu dài, ổn định.

Từ những dẫn chứng trên, nay gia đình bạn tới trực tiếp Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang có đất để xin giấy xác nhận là đất sử dụng ổn định, lâu dài không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết tại địa phương, gia đình bạn cần chuẩn bị hồ sơ gồm:

– Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

– Chứng minh thư nhân dân của người sử dụng đất

– Sổ hộ khẩu gia đình của người sử dụng đất

Sau đó gia đình bạn nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi có đất để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo thông tin mà bạn cung cấp, mẹ chồng của bạn là người lo liệu và giữ đất tức là các loại thuế và phí liên quan đến thửa đất thì các mẹ chồng bạn sẽ là người được quyền sở hữu thửa đất gia đình bạn đang sinh sống. Như vậy, hai bác của bạn sẽ không được hưởng quyền được chia tài sản.

Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty Luật Hưng Nguyên cho câu hỏi của quý khách hàng. Trong trường hợp có vấn đề nào thắc mắc, chưa rõ ràng, quý khách xin vui lòng liên hệ với chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.

Địa chỉ: Công ty Luật TNHH Hưng Nguyên, số 14N2, ngõ 90 Nguyễn Tuân, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Điện thoại: 024.8585 7869    .                                

Hotline: 098 775 6263

Email: Congtyluathungnguyen@gmail.com

Web: http://congtyluathungnguyen.com

 

Luật thương mại 2005

QUỐC HỘI
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số: 36/2005/QH11

Hà Nội, ngày 14 tháng 06 năm 2005

 

LUẬT

THƯƠNG MẠI

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về hoạt động thương mại.

CHƯƠNG I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

MỤC 1

PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

1. Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam.

2. Hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp các bên thoả thuận chọn áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này.

3. Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này.

Điều 2. Đối tượng áp dụng

1. Thương nhân hoạt động thương mại theo quy định tại Điều 1 của Luật này.

2. Tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.

3. Căn cứ vào những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật này đối với cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

2. Hàng hóa bao gồm:

a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;

b) Những vật gắn liền với đất đai.

3. Thói quen trong hoạt động thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên mặc nhiên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại.

4. Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.

5. Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử.

6. Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại ViệtNamlà đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập theo quy định của pháp luật ViệtNamđể tìm hiểu thị trường và thực hiện một số hoạt động xúc tiến thương mại mà pháp luật ViệtNamcho phép.

7. Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập và hoạt động thương mại tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

8. Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.

9. Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.

10. Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại.

11. Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại.

12. Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này.

13. Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.

14. Xuất xứ hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó.

15. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Điều 4. Áp dụng Luật thương mại và pháp luật có liên quan

1. Hoạt động thương mại phải tuân theo Luật thương mại và pháp luật có liên quan.

2. Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó.

3. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.

Điều 5. Áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế

download văn bản tại đây

Một số bất cập của Luật Phá sản năm 2004

công ty luật

Trong phần 1, chúng tôi đã phân tích: “Một số bất cập của Luật phá sản năm 2004”, trong nội dung của bài viết này, chúng tôi xin tiếp tục phân tích những bất cập của Luật phá sản doanh nghiệp 2004 (“LPSDN”) ở những nội dung sau:

1. Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:

Điều 23 LPSDN có quy định: “Trường hợp người nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án phải thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết”.

Theo quy định này, trường hợp người nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, có thể là các chủ nợ, thì trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án phải thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết.

Trên thực tế, việc quản lý và kiểm tra về địa điểm hoạt động kinh doanh ở Việt Nam còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp đăng ký hoạt động được một thời gian, sau đó thì “mất tích”, tức là khi chuyển địa điểm kinh doanh, doanh nghiệp, hợp tác xã cũng không thông báo với cơ quan thuế trực tiếp quản lý được biết. Chính vì vậy, khi có chủ nợ làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó thì Toà án không xác định được trụ sở doanh nghiệp ở đâu. Trong những trường hợp này, vừa rất khó xác định thẩm quyền giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản của Toà án và vừa không đủ điều kiện để Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Có những trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Chủ sở hữu là người nước ngoài, sau khi kinh doanh thua lỗ bỏ về nước, thì Tòa án cũng rất khó để xác định được địa chỉ của Chủ sở hữu ở nước ngoài, để gửi thông báo. Hoặc giả sử, những chủ sở hữu là người nước ngoài có nhận được thông báo của Tòa án thì họ cũng không đến Việt Nam để giải quyết. Thậm chí, có những trường hợp thực tế đã xảy ra, đó là chủ sở hữu là người Nước ngoài, sau khi nhận được thông báo của Tóa án, họ đồng ý đến Việt Nam giải quyết mọi vấn đề liên quan, những với điều kiện là phía Việt Nam phải bảo đảm cho họ xuất cảnh (rời khỏi Việt Nam) bất cứ lúc nào họ muốn.

Đối với những trường hợp như trên, Tòa án thường rất khó để giải quyết, trong khi với  sức ép của người lao động và của các chủ nợ đòi hỏi Tòa án phải mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp để bảo đảm quyền và lợi ích của họ. Có nhiều Tòa án đã áp dụng điểm 5 Điều 24 Luật Phá sản để trả lại đơn. Thực ra, đây chỉ là biện pháp tình thế, nhưng việc này gây rất nhiều khó khăn cho các chủ nợ, đặc biệt là Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khi mà diện tích nhà xưởng bị bỏ không, người thuê không sử dụng nhưng không thể thu hồi cho người khác thuê. Công nhân không được trả nợ lương, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn phải thuê người bảo quản trông nom tài sản của doanh nghiệp.

2. Xác định mở hay không mở thủ tục phá sản:

Khoản 1, điều 28, LPSDN quy định: “Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Toà án phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản”.

Theo quy định thì Tòa án chỉ có thời hạn là ba mươi ngày để xác định việc mở thủ tục phá sản hay không. Thực tế, khi hồ sơ đến tay Thẩm Phán thì thời hạn này chỉ còn khoảng hơn hai mươi ngày để xem hồ sơ và ra quyết định. Khoảng thời gian này thường không đủ để Thẩm phán xem xét hồ sơ, triệu tập các phiên họp cần thiết với sự tham gia của chủ doanh nghiệp, các cá nhân và tổ chức khác có liên quan để xem xét những bằng chứng chứng minh doanh nghiệp thật sự lâm vào tình trạng phá sản.

3. Việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản:

Điều 9, LPSDN quy định: “Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản”.

Mục 5.1, chương I của Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Toà án nhân dân tối cao thì quy định như sau: “Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và trong quá trình nghiên cứu hồ sơ việc phá sản, Thẩm phán phải có công văn gửi cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều 9 của LPS yêu cầu họ cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trong công văn phải ghi rõ về yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, tính chất của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản và yêu cầu cử người đại diện cụ thể (họ tên, tuổi, chức vụ, chuyên môn nghiệp vụ) tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản.Sau khi nhận được công văn về việc cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản, nếu thấy người được cử không đạt yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, thì Thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đó cử người khác thay thế”.

Điều 16 của Nghị định 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 quy định: “Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán gửi văn bản đề nghị cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản tới cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan quy định tại Điều 15 của Nghị định này. Trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Thẩm phán, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản”.

Từ các quy định trên, cho thấy có sự mâu thuẫn giữa các văn bản hướng dẫn về việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản.

Trên thực tế, việc phối hợp giữa Toà án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thường bị chậm trễ do không cử được người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tình trạng này đã dẫn đến việc không kịp thời thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản nên đã tạo ra lỗ hổng pháp lý cho doanh nghiệp tẩu tán tài sản.

4. Vấn đề xử lý tài sản của doanh nghiệp yêu cầu tuyên bố phá sản

Đối với tài sản là quyền sử dụng đất của các doanh nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm, đa số doanh nghiệp được Nhà nước cho thuê đất để xây dựng nhà xưởng, văn phòng làm việc nhưng khi doanh nghiệp tiến hành giải quyết phá sản thường bị Nhà nước ra quyết định thu hồi đất theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật đất đai năm 2003. Vì vậy, khi tiến hành bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp thì chỉ được bán tài sản trên đất, nên số tài sản này thường không bán được dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản và các chủ nợ. Mặt khác, việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản phải qua nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, tài sản để lâu dẫn đến giảm rất nhiều hoặc không còn giá trị sử dụng, trong khi nhu cầu mua có nhưng người mua không mua được.

Về việc thanh lý, thu hồi khoản nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân nợ doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản (“con nợ”) hiện chưa có quy định cụ thể.  Do đó, có nhiều trường hợp phía con nợ gây khó khăn không chịu trả, kéo dài thời gian thu hồi nợ của doanh nghiệp. Nhưng tổ thanh lý tài sản cũng không có biện pháp gì khác để tiến hành thu khoản nợ này.

Từ những bất cập của LPSDN nêu trên, thì trong thời gian tới, cần tiếp tục ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Phá sản năm 2004, nhằm hoàn thiện Luật và đưa vào thực tiễn áp dụng./.

Công ty Luật Hưng Nguyên ( sưu tầm)

Sửa đổi Hiến pháp bảo đảm đổi mới đồng bộ kinh tế, chính trị

Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhấn mạnh trong Tờ trình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, do Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý trình bày trước Quốc hội sáng qua (29/10), rằng “cần sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.

Làm sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ XHCN

Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đã tạo cơ sở chính trị – pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp.

Vì vậy, “cần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế”.

Ủy ban đã xác định 9 nội dung cơ bản sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là để tiếp tục thể chế hóa và làm sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong quan hệ quốc tế; tạo cơ sở hiến định để Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thực hiện quyền, nghĩa vụ quốc gia, góp phần giữ gìn hòa bình khu vực và thế giới, sửa đổi kỹ thuật lập hiến và quy trình sửa đổi Hiến pháp để bảo đảm hiệu lực, tính ổn định, lâu dài của Hiến pháp.

Dự thảo Hiến pháp sau khi sửa đổi, bổ sung có 11 chương, 126 điều (giảm 1 chương, 21 điều, giữ nguyên 18 điều , sửa đổi 95 điều và bổ sung 13 điều mớiso với Hiến pháp năm 1992).

Không lập cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp

Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, Dự thảo Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; bổ sung 2 thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước.

Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng nhấn mạnh, cần tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành của Hiến pháp năm 1992. Vì thế, cần tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu quả, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt là Ủy ban pháp luật của Quốc hội trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật; đồng thời, tiếp tục  giao Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, HĐND, UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành hoặc thuộc phạm vi kiểm tra, giám sát, quản lý của mình. Không thành lập cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp.

Trong điều kiện của hệ thống chính trị nước ta thì Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1992 thấy rằng, trưng cầu ý dân về Hiến pháp là sự kiện hệ trọng, nên giao cho Quốc hội quyền cân nhắc và quyết định để phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi giai đoạn…

Tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét, thảo luận, cho ý kiến lần đầu về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thông qua Nghị quyết về việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.Trên cơ sở ý kiến thảo luận của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và phối hợp với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, tổ chữu hữu quan tổ chức lấy ý kiến nhân dân theo Nghị quyết của Quốc hội.Trên cơ sở ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban sẽ tập hợp, tổng hợp và dự kiến tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2013); sau đó tiếp tục hoàn thiện trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2013).

Huy Anh

Lọt tội phạm do sợ bồi thường oan sai?

Từ khi có luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có tâm lý sợ oan sai liên quan đến trách nhiệm cá nhân, dẫn đến bỏ lọt tội phạm”, Trưởng phòng Kiểm sát điều tra (Viện KSND TP.HCM) cho biết.

Công ty Luật

Ngày 25/10, tại TP.HCM, Bộ Tư pháp tổ chức tọa đàm đánh giá 3 năm thi hành luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Lúng túng giải quyết bồi thường

Năm 1997, bà Trần Thị Thuận bị cơ quan CSĐT Công an quận 8 khởi tố tội “hủy hoại tài sản”. Tuy nhiên, quá trình điều tra không chứng minh được hành vi phạm tội của bà. 8 năm sau, VKSND quận 8 ra quyết định đình chỉ, tuyên bố bà Thuận không phạm tội.

VKSND quận 8 gửi thông báo cho bà Thuận biết, trường hợp của bà thuộc diện được bồi thường. Cơ quan này cũng nhiều lần mời bà Thuận đến nhận quyết định đình chỉ và tiến hành thương lượng nhưng bà Thuận không đến. UBND quận cũng lập đoàn công tác đến nhà bà Thuận nhưng bà không tiếp. “Trường hợp này phải giải quyết ra sao?”, ông Trần Thật, Trưởng phòng Kiểm sát điều tra (Viện KSND TP.HCM) nêu vấn đề.

Ông Vũ Thanh Bình, Phó phòng kiểm tra (Cục Thi hành án dân sự TP.HCM) cũng nêu một trường hợp khó xử lý khác.

Ông Trương Văn Lập (quận Bình Tân) yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự quận 11 bồi thường 26 lượng vàng (trị giá hơn 1 tỷ đồng) do một nhân viên của chi cục này thiếu sót trong quá trình xác minh tài sản thi hành bản án của TAND TP.HCM để người phải thi hành án là ông Hồ A Cẩu tẩu tán nhà, trốn tránh thi hành án.

Tuy nhiên, Chi cục Thi hành án dân sự quận 11 chưa thể xác định được mức độ thiệt hại do căn nhà mà ông Cẩu tẩu tán là tài sản chung của gia đình ông Cẩu. Hơn nữa, đến nay căn nhà đã được sang tên nhiều người.

“Việc xác định thiệt hại theo luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong vụ này đang gặp khó khăn. Những cơ quan nào phối hợp cùng với cơ quan Thi hành án dân sự quận để xác minh thiệt hại cũng chưa có hướng dẫn cụ thể”, ông Bình nói.

Một lo ngại khác, ông Trần Thật thừa nhận, từ khi có luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có tâm lý sợ oan sai liên quan đến trách nhiệm cá nhân, dẫn đến bỏ lọt tội phạm.

Vị đại diện Viện KSND TP.HCM nói, kể từ lúc “thò bút” phê chuẩn lệnh bắt tạm giam để điều tra đến lúc kết thúc vụ án, Viện kiểm sát chịu trách nhiệm từ đầu đến cuối. Có những vụ án, hành vi phạm tội là có thật nhưng do sai sót trong việc thu thập chứng cứ, quy trình xử lý chứng cứ nên nhiều khi trách nhiệm bồi thường thuộc về Viện kiểm sát.

Từ đó, không ít kiểm sát viên rơi vào tâm lý, thà bỏ lột tội phạm còn hơn bắt giữ oan sai, liên đới đến trách nhiệm cá nhân. Nhưng chính điều đó dẫn đến hệ quả là không ngăn chặn được tội phạm, gây hậu quả khôn lường.

Ông Trần Thật đề nghị xây dựng cơ chế ngăn chặn tình trạng sợ oan sai dẫn đến bỏ lọt tội phạm cũng như cơ chế đãi ngộ tương xứng đối với người thực hiện công vụ liên quan đến việc thi hành luật này.

Người bị oan sai là doanh nghiệp xử lý thế nào?

Nhiều đại biểu cũng cho rằng, đối với những người làm công ăn lương thì có thể căn cứ vào tài sản là tiền lương để bồi thường thiệt hại nhưng đối với các doanh nghiệp, sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang, đảng viên, cán bộ, người nước ngoài… thì chưa biết hướng xử lý vì khó xác định tổn hại về vật chất và tinh thần.

“Đối với người bị oan là các chủ doanh nghiệp, việc xác định thiệt hại về vật chất là rất khó khăn. Ví dụ khi một chủ doanh nghiệp bị oan sai, họ sẽ mất hợp đồng kinh tế, mất đối tác về sau và nhất là ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp… thì sẽ được tính toán bồi thường như thế nào? Hiện chưa có hướng dẫn”, đại diện Viện KSND TP.HCM lo ngại.

Thừa nhận trong quá trình triển khai và bản thân luật có nhiều hạn chế, Cục trưởng Cục Bồi thường Nhà nước (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thanh Tịnh khẳng định, mặc dù đã có thiệt hại thực tế xảy ra nhưng người bị thiệt hại không có quyền yêu cầu bồi thường ngay mà phải thực hiện các thủ tục cần thiết để có được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng chưa có gây khó khăn trong công tác xử lý…

Để có hướng xử lý cụ thể các vụ việc bồi thường thiệt hại, ông Tịnh cho biết, các bộ ngành đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo văn bản hướng dẫn thi hành luật để ban hành cuối năm nay hoặc đầu năm sau.

Đối với việc xác định thiệt hại của chủ doanh nghiệp, ông Tịnh cho rằng, nếu thu nhập xác định được thì phải bồi thường đầy đủ cho họ. “Mà đã là thu nhập xác định được thì dù là chủ doanh nghiệp cũng phải có căn cứ để chứng minh. Chủ doanh nghiệp cũng có lương. Nếu chủ doanh nghiệp có thu nhập 50-100 triệu mỗi tháng thì chúng ta cũng phải bồi thường”, ông Tịnh nói.

Còn nếu thu nhập không xác định được, ông Tịnh cho biết, sẽ áp dụng lương tối thiểu để tính toán bồi thường thiệt hại.

Tá Lâm

Việt Nam là một ngôi sao đang lên

Hãng kiểm toán Ernst & Young nhận định trong vòng 25 năm tới Việt Nam sẽ tăng trưởng trung bình 6% mỗi năm và số người có thu nhập trên 30.000 USD mỗi năm có thể cao gấp 10 vào năm 2021.

Công ty Luật

Trong báo cáo “Dự báo các thị trường tăng trưởng nhanh: Mùa thu 2012” công bố hôm qua, hãng kiểm toán Mỹ nhận định Việt Nam là một ngôi sao đang lên trong số 25 quốc gia tăng trưởng nhanh của thế giới.

E&Y nhận định cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và châu Âu đã gây ra nhiều tác động tiêu cực. Hàng hóa tăng giá đánh mạnh vào thu nhập của người nghèo. Chi phí năng lượng lên cao khiến nhiều doanh nghiệp điêu đứng. Tuy nhiên, các yếu tố nền tảng tại những thị trường mới nổi không biến động lớn. Vì vậy, nhu cầu nội địa và đầu tư vào cơ sở hạ tầng được dự báo sẽ làm tăng tốc quá trình phục hồi.

Báo cáo này đã chọn Việt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ và Indonesia là các nền kinh tế đặc biệt mạnh. Kể từ 2007, Việt Nam đã thu hút hơn 6,5 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hàng năm.

Ông Alexis Karklins-Marchay – Giám đốc trung tâm nghiên cứu các nền kinh tế mới nổi tại Ernst & Young cho biết: “5 năm trước, đây là các quốc gia mà nhà đầu tư của chúng tôi không quan tâm. Nhưng việc đó giờ đã thay đổi. Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam và Indonesia là những ví dụ rất rõ ràng”. Thổ Nhĩ Kỳ và Indonesia thường xuyên được nhắc đến trong nhóm các nền kinh tế phát triển mạnh, nhưng Việt Nam thì không.

Karklins-Marchay đề cập đến hai yếu tố chính thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Đó là vị trí địa lý thuận lợi và nguồn nhân lực dồi dào. Việt Nam hiện có 90 triệu người và 80% trẻ em đang học trung học, trong khi giá nhân lực lại chỉ bằng nửa Trung Quốc hay Thái Lan.

Báo cáo cũng ước tính số người có thu nhập trên 30.000 USD một năm tại đây sẽ tăng từ 6.000 năm ngoái lên 60.000 năm 2021. Việc này sẽ khuyến khích Việt Nam chuyển sang mô hình sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng giá trị cao. Ngân hàng Thế giới (WB) cũng dự đoán năm tới, điện thoại di động và các sản phẩm liên quan sẽ đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhiều hơn dệt may.

E&Y tập trung nghiên cứu vào lĩnh vực ngân hàng và thị trường vốn. Hãng này chỉ ra rằng Nga, Trung Đông và các ngân hàng châu Á rất có tiềm năng đầu tư vào Việt Nam. Trên 50% dân số Việt Nam sẽ có tài khoản ngân hàng và Chính phủ cũng đặt mục tiêu giảm số lượng nhà băng tại đây từ 38 xuống 15.

Các ngân hàng tại đây đang lên kế hoạch mở rộng mạng lưới và áp dụng công nghệ mới để tiếp cận khách hàng nông thôn. E&Y dự đoán khi các nhà đầu tư lấy lại niềm tin, những loại hình tài chính tiên tiến như quỹ quản lý tiền mặt hay giao dịch ngoại hối sẽ tràn vào Việt Nam.

Tuy nhiên, E&Y cũng cho rằng nhà đầu tư vào ba nước này vẫn phải cảnh giác về bong bóng tài sản và các cú shock kinh tế từ bên ngoài. Việc tài chính toàn cầu đang phục hồi, tình hình châu Âu bất ổn và Trung Quốc có nguy cơ hạ cánh cứng sẽ khiến các nước này gặp rủi ro.

Hà Thu (theo FT)

Việt Nam tiếp tục tụt hạng về môi trường kinh doanh

Đã có một số cải tiến về thể chế, nhưng môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn bị hạ một bậc và rớt xuống mức thấp nhất 6 năm qua, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới.

công ty Luật

Ngân hàng Thế giới ngày 23/10 công bố báo cáo Môi trường Kinh doanh 2013. Năm nay, Việt Nam tụt hạng một bậc, xuống đứng vị trí 99 trên tổng số 183 nước được xếp hạng. Đây là thứ hạng thấp nhất của Việt Nam kể từ năm 2006.

Trong 10 hạng mục để đánh giá môi trường kinh doanh, Việt Nam chỉ cải thiện được 3 so với năm ngoái là thành lập doanh nghiệp, tiếp cận điện năng và nộp thuế. Một số lĩnh vực khác kém xa thế giới như bảo vệ nhà đầu tư (xếp hạng 169 trên 183 nước), hay Xử lý doanh nghiệp mất khả năng thanh toán (xếp hạng 149).

Mặc dù vậy, Ngân hàng Thế giới đánh giá rằng Việt Nam cũng đã có nhiều tiến bộ, thực hiện tổng cộng 18 cải cách về thể chế hoặc pháp lý ở 8 trên 10 lĩnh vực trong 8 năm qua. Gần đây nhất, Việt Nam đã tạo thuận lợi trong thủ tục thành lập doanh nghiệp bằng việc cho phép doanh nghiệp trong nước sử dụng hóa đơn thuế giá trị gia tăng tự in.

Ngoài ra, nếu như hồi 2009, tính toán của World Bank cho thấy mỗi năm doanh nghiệp Việt tốn hơn 1.000 giờ chỉ riêng cho việc đi nộp thuế thì năm nay con số trên giảm còn hơn 870 giờ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp khác tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương chỉ mất trung bình hơn 200 giờ đồng hồ cho việc đóng thuế mỗi năm, và ở các nước OECD thì con số này là 176 giờ.

“Một trong những ưu tiên hàng đầu của Nhóm Ngân hàng Thế giới là hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam,” bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam khẳng định, “Kết quả báo cáo thể hiện rằng cần nỗ lực nhiều hơn để đưa Việt Nam sánh ngang với các nền kinh tế trong khu vực.”

Tính trên phạm vi toàn cầu, Singapore năm thứ 7 liên tiếp có môi trường pháp lý thuận lợi nhất thế giới cho kinh doanh, đứng thứ hai vẫn là Đặc khu Hành chính Hong Kong. Các quốc gia khác có mặt trong Top 10 là New Zealand, Mỹ, Đan Mạch, Na Uy, Anh, Hàn Quốc, Gruzia, và Australia.

Cũng theo báo cáo, các quốc gia khác trong khu vực Đông Á – Thái Bình Dương có sự cải thiện môi trường kinh doanh mạnh mẽ hơn so với Việt Nam. Trong tám năm qua, Trung Quốc là nền kinh tế có nhiều tiến bộ nhất khu vực về cải cách các quy định kinh doanh tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước.

Báo cáo Môi trường Kinh doanh phân tích các quy định áp dụng cho các doanh nghiệp trong một nền kinh tế trong vòng đời của doanh nghiệp, trong đó có các quy định về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, thương mại quốc tế, nộp thuế và bảo vệ nhà đầu tư. Thứ hạng chung về mức độ thuận lợi kinh doanh được đánh giá dựa trên 10 chỉ số của 185 nền kinh tế. Báo cáo Môi trường Kinh doanh không đánh giá toàn bộ các lĩnh vực của môi trường kinh doanh có ảnh hưởng đến doanh nghiệp và nhà đầu tư. Chẳng hạn, báo cáo không phân tích chất lượng quản trị tài chính, các mặt của sự ổn định kinh tế vĩ mô, trình độ kỹ năng của lực lượng lao động hay sự ổn định của hệ thống tài chính. Các kết quả trong báo cáo đã thúc đẩy quá trình thảo luận về chính sách trên toàn thế giới và tạo điều kiện tăng cường nghiên cứu về ảnh hưởng của các quy định ở cấp doanh nghiệp tới kết quả hoạt động chung của các nền kinh tế. Đây là năm thứ 10 liên tiếp World Bank thực hiện báo cáo này.

Công ty Luật Hưng Nguyên – Theo Thanh Bình

Những pháp nhân nào phải chịu trách nhiệm hình sự?

Vấn đề gây nhiều tranh cãi là những pháp nhân nào phải chịu trách nhiệm hình sự?. Bởi lẽ, nếu quy định tất cả mà không có loại trừ sẽ dẫn đến thiếu khả thi.

Công ty Luật Hưng Nguyên

Do BLHS hiện hành chỉ quy định trách nhiệm hình sự của cá nhân nên khi đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo nhiều chuyên gia, nó sẽ kéo theo hàng loạt vấn đề khác về năng lực chịu trách nhiệm hình sự, lỗi, hình phạt…Nói như vậy để thấy rằng nếu đưa vấn đề trên vào BLHS sửa đổi thì phải cân nhắc thận trọng và có sự nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung các quy định liên quan.

 

Một vấn đề quan trọng khác đó là việc xác định chủ thể trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Nhiều ý kiến cho rằng nên phải giới hạn chủ thể chịu trách nhiệm hình sự là các tổ chức có tư cách pháp nhân. Không nên đưa nhà nước là chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự vì Nhà nước là phạm trù rộng, đặc biệt, nhà nước đặt ra chính sách hình sự và nhà nước không thể tự mình trừng trị mình.

 

Tội phạm kinh tế, môi trường: Cần quy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự

 

Một số chuyên gia cho rằng, nên quy định, các chủ thể chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân bao gồm: các cơ quan của Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, các cơ quan hành chính – sự nghiệp, các đoàn thể, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, các tổng công ty, công ty, xí nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị – xã hội được thành lập phục vụ lợi ích công cộng. 

 

Tuy nhiên, theo TS. Cao Thị Oanh, Khoa Pháp luật Hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội thì bước đầu, nếu bổ sung trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân vào BLHS thì nên quy định ở các tội mà khả năng pháp nhân là chủ thể của tội phạm cao như các tội phạm về kinh tế, các tội phạm về môi trường, một số tội phạm về ma túy và một số tội phạm về an toàn công cộng, trật tự công cộng.

 

TS Oanh cũng cho rằng, từ góc độ áp dụng pháp luật, để truy cứu trách nhiệm hình sự tổ chức, chỉ cần chứng minh hành vi phạm tội, lỗi của người lãnh đạo, chỉ huy tổ chức và các điều kiện khác của trách nhiệm hình sự  (như vai trò lãnh đạo, chỉ huy của cá nhân trong tổ chức, nhân danh, thay mặt tổ chức, vì lợi ích của tổ chức…) là đủ.

 

Bên cạnh đó, cần áp dụng nguyên tắc trách nhiệm kép trong giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân ở nước ta là hoàn toàn hợp lý. Như vậy, nếu người lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân phạm tội vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân thì cả pháp nhân và người lãnh đạo, người đại diện đó phải chịu trách nhiệm về tội phạm được thực hiện.

 

Đồng tình với TS. Oanh, một số chuyên gia nhấn mạnh, trong điều kiện hiện nay, để phù hợp với tình hình và đảm bảo tính khả thi của luật, nên tập trung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào các nhóm tội cơ bản như tội phạm kinh tế, tội phạm môi trường..

 

Vi phạm vì lợi ích pháp nhân: phải xử lý

 

Tuy nhiên để có thể xử lý một cách “tận gốc” tội phạm hình sự do pháp nhân thực hiện trong điều kiện hiện nay (hành vi phạm tội được thực hiện rất tinh vi, phức tạp) thì cần phải quy định rất chặt chẽ, cụ thể về các điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

Ví dụ, hiện nay, điển hình trong các vi phạm về trốn thuế hay môi trường, nhiều vụ không phải do chính người đứng đầu cơ quan, tổ chức thực hiện mà họ ủy quyền cho người khác thực hiện (ví dụ như cấp phó). Những trường hợp này cũng cần xác định cũng là do pháp nhân thực hiện. Hay những trường hợp không phải là ủy quyền nhưng thực hiện nhân danh pháp nhân thì cũng phải được coi là chính pháp nhân đó vi phạm. 

 

Phó Chủ nhiệm Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội Trịnh Quốc Toàn cho rằng, nếu chỉ xử lý về hình sự đối với người đại diện, những người được ủy quyền hoặc những nhân viên thừa hành thực hiện thì rõ ràng là bỏ lọt tội phạm, trái với nguyên tắc công bằng trong BLHS. Đã đến lúc vấn đề TNHS của pháp nhân – tổ chức phải được giải quyết về mặt hình sự một cách trực tiếp.

 

Do đó, nhiều chuyên gia cho rằng điều kiện để truy cứu TNHS của pháp nhân là có một cá nhân thực hiện tội phạm trong khuôn khổ hoạt động hoặc vì lợi ích của pháp nhân. 

 

Một trong những chủ trương sửa đổi BLHS hiện hành là tăng phạt tiền, giảm phạt tù thì đối với pháp nhân, ngoài việc xác định hệ thống hình phạt liên quan đến trách nhiệm hình sự thì cần quy định một hệ thống hình phạt riêng bao gồm hình phạt chính, hình phạt bổ sung, trong đó cần chú trọng hình phạt tiền.

 

Công ty Luật Hưng Nguyên – Theo Việt Hòa

Doanh nghiệp “xa lạ” với khái niệm minh bạch

Thanh tra Chính phủ phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) ngày 16/10 tổ chức Hội nghị đối thoại chính sách với DN tại Hà Nội. Các đại biểu tham dự hội nghị tập trung làm rõ về tính minh bạch và nhất quán trong thực hiện các quy định liên quan tới lĩnh vực tín dụng – ngân hàng; đất đai; thanh tra, kiểm tra và phòng, chống tham nhũng.

Công ty Luật Hưng Nguyên

Nguy cơ nảy sinh hối lộ

Theo thống kê của VCCI, hiện khá nhiều DN Việt Nam dường như vẫn còn xa lạ với khái niệm minh bạch, nhất quán. Trong khi đó, đối với các Cty đa quốc gia đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, khái niệm trên lại khá phổ biến. Các DN này coi thực hiện tính minh bạch, nhất quán là một đặc trưng trong phương thức kinh doanh, thậm chí xác định nó là giá trị cốt lõi của DN.

Tại hội nghị nhiều đại biểu cho rằng, chính sách nhất quán, minh bạch sẽ giúp chính DN xây dựng được hình ảnh, duy trì sự tin cậy của các đối tác, khách hàng, cổ đông… cải thiện năng lực cạnh tranh, chất lượng sản phẩm và môi trường kinh doanh nói chung.

Tuy nhiên, không ít DN gặp phải nhiều hạn chế trong khả năng tiếp cận thông tin liên quan tới các lĩnh vực đất đai, tín dụng – ngân hàng, thanh tra, kiểm tra, chống gian lận trong kinh doanh và phòng, chống tham nhũng. Từ đó nảy sinh những bất cập trong chính sách, pháp luật có nguy cơ làm nảy sinh tệ hối lộ, tác động tiêu cực tới tính liêm chính và minh bạch trong hoạt động kinh doanh.

Theo ông Vũ Tiến Vinh – Giám đốc Pháp lý và Tuân thủ, Cty TNHH ABB Việt Nam, nhất quán và minh bạch là những yếu tố vô cùng quan trọng để có thể giúp các tổ chức, DN giảm thiểu chi phí bất hợp lý. Về lâu dài, các đại biểu khuyến nghị cần sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm tăng cường công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động.

Thẳng thắn đối thoại cùng DN

Liên quan đến hoạt động kinh doanh của các cơ quan quân đội và công an liệu có ảnh hưởng gì tới các DN khác, Phó Cục trưởng Cục Chống tham nhũng (Thanh tra Chính phủ) Ngô Mạnh Hùng nhấn mạnh, quan trọng là chúng ta đã có các cơ chế thanh tra, giám sát các DN này để khi tham gia hoạt động kinh tế họ không có đặc quyền, đặc lợi.

Hơn nữa, chủ trương của Đảng và Nhà nước hiện nay là đang “bóc tách” chức năng quản lý nhà nước với chức năng kinh doanh của các cơ quan quản lý; đang xây dựng cơ chế để bảo đảm tính cạnh tranh bình đẳng như các chủ thể DN chứ không có chuyện “xin chính sách” để tạo thuận lợi hơn cho các DN đặc thù. Trên tinh thần ấy, Dự thảo Luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi) cũng đang xây dựng cơ chế kiểm tra, thanh tra bình đẳng giữa các DN.

Về khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, theo Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách và Pháp chế (Bộ TN&MT) Bùi Sỹ Dũng, khiếu nại về đất đai chủ yếu là liên quan đến đền bù, giải phóng mặt bằng, trong đó phần lớn là giá đất bồi thường của Nhà nước khác xa so với giá thị trường. Vì vậy, để giải quyết căn bản vấn đề này, Luật Đất đai (sửa đổi) tới đây dự kiến sẽ đổi mới quy định khung giá được chi tiết hóa theo các tỉnh, so với trước đây là theo vùng, còn bảng giá được ổn định trong vòng 5 năm, so với trước đây là 1 năm…

Trao đổi với báo chí bên lề Hội nghị đối thoại, Chánh Văn phòng Cơ quan Thanh tra Giám sát ngân hàng (NHNN Việt Nam) Trương Ngọc Anh cho biết, vấn đề công khai, minh bạch trong lĩnh vực tín dụng – ngân hàng có 2 góc độ. Đối với các tổ chức tín dụng là các ngân hàng thương mại, lại là Cty CP đại chúng mà niêm yết cổ phiếu thì phải công khai theo Luật Chứng khoán. Nội dung công khai của tổ chức tín dụng bao gồm tài chính và một số nội dung khác.Đối với NHNN, trước hết công khai toàn bộ các quy phạm pháp luật. Riêng hoạt động thanh tra, kiểm tra thì cũng có yêu cầu về công khai kết luận thanh tra nhưng hiện nay kết luận thanh tra mới được công khai từng phần. NHNN cũng đang xây dựng Đề án công khai, minh bạch trình Thủ tướng Chính phủ và hy vọng là đầu năm 2013, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét phê duyệt Đề án này.

Công ty luật Hưng Nguyên – Thục Quyên

Giải pháp nào hạn chế hậu quả việc “tuyên án cho sướng miệng”?

Có muôn vàn lý do để án dân sự không thể thi hành, trong đó có những bất cập trong quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS). Những tồn tại này khiến cho cơ quan thi hành án “lao đao”, còn ngành Tòa án thì dù biết đấy nhưng vẫn “không thể làm khác”.

Công ty Luật Hưng Nguyên

Đó là những trường hợp người nghiện, người mang vác thuê, kể cả buôn bán ma túy để thỏa những cơn nghiện nhất thời. Họ không có tài sản, cơm ăn phải có người nuôi, thậm chí đến một địa chỉ cư trú cũng không có… thì việc thi hành án mấy chục triệu là điều “không tưởng”. Nhiều vụ chấp hành án xong, ra tù, người phải thi hành án bỏ địa phương đi “mất tích”, đến 50 ngàn án phí hình sự (nay là 200 ngàn) Nhà nước cũng không đòi được.

Ngành Thi hành án dân sự nhiều lần bức xúc vì cho rằng, các vị “quan tòa” chỉ tuyên án cho “sướng miệng”, mà không quan tâm xem việc tuyên đó liệu có khả thi không. Không chỉ là những vụ tuyên án trong khi người phạm tội không có tài sản, mà trong đó có cả những vụ tuyên nhầm, tuyên sai, tuyên không rõ địa chỉ… cũng làm cho lượng án tồn đọng ngày một tăng.

Đó là chưa kể, để lần tìm xem địa chỉ của đương sự ở đâu, tài sản như thế nào… nhiều phen thi hành án phải “mướt mải” năm lần bảy lượt hỏi Tòa. Có Tòa trả lời, có Tòa không, khiến cho việc thi hành án càng trở nên khó khăn, bế tắc.

Tuy nhiên, các Tòa án cũng có lý của riêng họ. Ví dụ như trước kia, theo quy định của BLHS, cứ “dính” đến ma túy là phạt tối thiểu 20 triệu, mặc dù Tòa thừa biết bị cáo đó tiền bạc không có một cắc cũng vẫn phải tuyên, vì nếu không tuyên, án sẽ bị hủy vì vi phạm pháp luật. Khoản tiền phạt đó cũng giống như khoản án phí chỉ 200 ngàn, nhiều người không có điều kiện nộp mà vẫn tuyên, dù biết sau đó “trách nhiệm” đổ lên vai thi hành án.

Căn cơ để giải quyết vấn đề này là sửa luật, trong đó có cả BLHS, cả Luật Thi hành án dân sự và các luật liên quan. Tuy nhiên, muốn sửa luật thì đòi hỏi cần có thời gian, theo một quy trình nhất định. Vì vậy, trước mắt để hạn chế việc án tuyên mà không thể thi hành thì ngành Tòa án cần tuyên những bản án chính xác, rõ ràng.

Các cơ quan tố tụng cần áp dụng kịp thời các biện pháp kê biên để tránh việc tẩu tán tài sản, đảm bảo cho quá trình thi hành án. Tự thân cơ quan thi hành án cũng phải nâng cao trách nhiệm của mình trong việc thi hành phần dân sự trong bản án hình sự.

Hiện nay, Đề án miễn thi hành án đối với những khoản thu cho ngân sách Nhà nước không có điều kiện thi hành tính đến ngày 1/7/2009 đã được trình Chính phủ, dự kiến được trình ra Quốc hội vào kỳ họp thứ 4 tới đây. Nếu Đề án được thông qua thì sẽ giải quyết được một lượng không nhỏ án đang “đọng” tại các cơ quan thi hành án dân sự.

Thắng Chung