Nỗi ám ảnh của người đàn bà hơn 2000 ngày bị chồng bạo hành để… trả thù cha mẹ vợ

Đến với nhau theo tiếng gọi con tim, cả những người đàn ông và phụ nữ ấy đều mong mỏi cuộc sống hôn nhân của mình sẽ hạnh phúc đến khi “đầu bạc răng long”. Nhưng thời gian trôi qua, điểm kết cho hành trình chung sống của rất nhiều cặp đôi lại là… cánh cửa tòa án.

Họ chia tay, khi người phụ nữ phải chịu sự bạo hành, ngược đãi khủng khiếp của chồng, vì sự can thiệp thô bạo của gia đình chồng vào các mối quan hệ. Cũng có khi, chính người chồng lại là nạn nhân bị người phụ nữ “đầu gối tay ấp” của mình hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần… Với luật sư Nguyễn Văn Nguyên (Giám đốc Công ty Luật Hưng Nguyên – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội), người từng bào chữa nhiều vụ án về hôn nhân gia đình, thì mỗi bi kịch tan vỡ sau cánh cửa tòa án đều để lại thật nhiều nỗi ám ảnh và những bài học suy ngẫm cho cả xã hội.

“Nghiệt ngã thay, lúc chưa lấy được vợ thì dù có phải “trèo đèo lội suối”, dù bị gia đình người yêu ngăn cản, anh ta cũng cố gắng để lấy cho được người con gái mình yêu. Nhưng rồi sau khi cưới, chị Hiền mới phũ phàng nhận ra tất cả chỉ là một màn kịch. Lộ nguyên hình là một kẻ vũ phu, bạc ác, gã suốt ngày lấy cớ trả thù bố mẹ vợ để hành hạ người phụ nữ cùng mình đầu gối tay ấp”. Vừa tâm sự, luật sư Nguyễn Văn Nguyên vừa bảo câu chuyện hôn nhân đầy bi kịch ấy đến giờ vẫn còn khiến anh thấy xót xa mỗi lần nhớ lại.

 Những năm tháng tủi nhục

Luật sư Nguyên kể: “Một lần về thăm quê Nghệ An, tôi tình cờ được hàng xóm nhờ giúp đỡ người phụ nữ muốn ly hôn với chồng mãi tận Đăk Nông. Ngay lần đầu gặp, tôi đã bị ám ảnh bởi cái ngoại hình gầy gò, nước da đen sạm và khuôn mặt khắc khổ của một người đàn bà trải qua quá nhiều bất hạnh. Suốt cuộc trò chuyện nhờ tôi giúp làm thủ tục ly hôn, chị nói r?t ít, chốc chốc lại lấy tay lau nước mắt. Ngồi bên cạnh, bố mẹ chị phải đỡ lời: “Thời con gái, nó cũng xinh xắn, được bao người nhòm ngó. Vậy mà sau 8 năm đằng đẵng sống trong “địa ngục”, hình hài nó giờ thế này đây”.

Trở lại ngôi nhà sau một ngày với hy vọng người đàn bà đã bình tĩnh lại, tôi được chị kể về câu chuyện hôn nhân đầy bi kịch của mình. Chị tâm sự: “Cùng sinh năm 1975, lại lớn lên bên cạnh nhau với bao kỉ niệm gắn bó ngày thơ ấu, tôi và Thắng (chồng chị – PV) đến với nhau dường như có sự sắp đặt bởi “bàn tay số phận”. Còn nhớ ngày cha mẹ ly hôn, mỗi người mỗi phương, anh Thắng cũng phải theo mẹ dạt vào miền Nam. Nhưng chỉ được một thời gian, không hiểu sao anh ấy đột ngột quay về, sống nhờ ông bà nội ngoại. Khoảng thời gian này, hai đứa trẻ mới 14 tuổi, song trái tim đã biết rung cảm khi gặp lại nhau. Nhưng xen giữa khoảng thời gian yêu đương ấy, Thắng năm lần bảy lượt vào Nam, cuộc sống bất ổn khiến tình yêu của hai đứa cũng vì thế mà vấp phải sự phản đối dữ dội của cha mẹ tôi”.

Nhớ lại đoạn ký ức ngọt ngào nhưng đầy trắc trở, chị tâm sự: “Ngày tôi về xin phép cha mẹ tác thành cho hai đứa, không chỉ các cụ thân sinh mà cả họ hàng biết chuyện cũng phản đối kịch liệt. Một phần vì ác cảm với quá khứ tan vỡ của cha mẹ Thắng, phần khác mọi người lại lo sợ cho cuộc sống của tôi sau này. Bởi trong suốt thời gian yêu nhau, Thắng hết chuyển từ lơ xe đến làm rẫy, bán hàng thuê mà chưa bao giờ kiếm được công việc gì ổn định. Nhưng lúc ấy, theo tiếng gọi trái tim, bao nhiêu lời khuyên nhủ, phân tích thiệt hơn của cha mẹ đều bị tôi bỏ ngoài tai. Nhiều lần, tôi bỏ cơm, khóc lóc đe dọa nếu không lấy được anh sẽ tự tử. Năm lần bảy lượt thuyết phục không được, vì thương con, cha mẹ tôi cũng đành nhắm mắt ưng thuận”.

Khoảng thời gian một năm sau khi cưới cũng là chuỗi ngày hạnh phúc hiếm hoi của chị Hiền. Cùng chồng dọn về ở nhà ông bà nội, dù kinh tế nghèo nàn, nhưng Thắng cũng chịu khó chắt chiu làm lụng. Rồi hạnh phúc nhân lên, khi chị sinh đứa con trai đầu lòng. Đúng lúc này, tâm sự với vợ, Thắng đề xuất đưa cả gia đình vào vùng kinh tế mới Đăk Nông, nơi mẹ anh ta đang sinh sống, để làm ăn. “Thuyền theo lái, gái theo chồng”, ngỡ Thắng thật lòng lo cho vợ con, gia đình, chị Hiền cũng thuận theo mà không ngờ, cuộc đời mình từ đây sẽ rẽ sang một bước ngoặt mới nhuốm màu bi kịch.

Giai đoạn đầu vào vùng kinh tế mới, Thắng cũng nhận được ít rẫy trồng ngô, cà phê. Công việc nặng nhọc, nên chị Hiền cũng không giúp được gì nhiều mà chủ yếu ở nhà lo chuyện chăm sóc con cái, phụ bán sản phẩm vào mùa thu hoạch. Cuộc sống nhọc nhằn là thế, nhưng người vợ trẻ luôn tin sẽ đến một ngày, kinh tế gia đình khấm khá lên. Thắng thì ngược lại, sau mỗi lần đi rẫy, đi nương là tụ tập nhậu nhẹt bê tha cùng bạn bè. Những hôm về nhà trong trạng thái say khướt, gã lộ nguyên hình là kẻ vũ phu, khi nhẫn tâm cậy tủ lấy hết tiền bạc rồi đay nghiến, đánh đập vợ. Lần nào giải thích cho hành động ấy, Thắng cũng chỉ một câu: “Tao phải đánh mày để trả thù gia đình mày đã coi tao không ra gì, khiến tao khổ sở mới lấy được vợ”.

Những màn bạo hành từ đấy diễn ra với mật độ dày đặc. Luật sư Chất kể: “Chị Hiền nói với tôi có lần đang ăn cơm, Thắng đi nhậu say về rồi không nói không rằng, lấy tay ụp cả nồi cơm nóng vào đầu vợ. Lần ấy, chị Hiền bị bỏng nặng, phải điều trị một thời gian dài mới khỏi. Có bận khác, cũng trong bộ dạng say xỉn, gã chồng vũ phu vô cớ lột hết quần áo, bắt trói vợ vào cột nhà sau đó dùng dây thừng đánh đập đến ngất xỉu. Đau lòng hơn, cả khi chị Hiền mang thai đứa con thứ hai, Thắng vẫn tàn nhẫn đấm đá, đến khi vợ đau đến mức sảy thai mới chịu dừng lại”.

Cuộc chạy trốn kẻ vũ phu giải thoát bản thân

Câu chuyện đến đây, dường như bị xúc động mạnh, luật sư Nguyên không nén nổi tiếng thở dài não nuột. Anh chia sẻ: “Lúc nghe đến đoạn chị Hiền nước mắt lưng tròng kể lại mình bị đánh đến sảy thai, tôi bức xúc hỏi: “Vì sao không ly dị ngay mà phải đợi đến tận bây giờ (?)”. Đáp lời tôi, chị ấy nghẹn ngào: “Tôi sợ (!). Sự thật là tôi bị ám ảnh bởi suy nghĩ nếu đòi ly hôn thì anh ta sẽ đánh đập mình cho đến chết”. Cũng bởi nỗi ám ảnh kinh hoàng ấy, người phụ nữ bất hạnh lại phải “ngậm bồ hòn làm ngọt”, vừa nuôi con, vừa cam chịu những trận đòn thừa sống thiếu chết. Thời gian trôi qua làm nguôi ngoai dần nỗi đau, chị lại sinh cho Thắng một đứa con gái nữa. Thế nhưng, sợi dây tình cảm mong manh ấy cũng không khiến gã chồng vũ phu có thêm một chút mủi lòng. Không thể chịu nổi cuộc sống “địa ngục trần gian”, chị Hiền âm thầm lập mưu chạy trốn từ Đăk Nông về quê ngoại tại Nghệ An. Chờ đến ngày mang cà phê và ngô ra chợ bán theo định kỳ để mua thức ăn cho cả gia đình, chị âm thầm lấy tiền mua vé xe khách ra đi. Hôm ấy là tròn 8 năm ngày chị Hiền theo chồng vào Đăk Nông làm kinh tế mới”. 

Về đến nhà ngoại, cha mẹ chị ai cũng kinh ngạc khi thấy con gái đi làm kinh tế mới sau mấy năm trở về thì trở nên quá tiều tụy. Nỗi uất hận dâng trào, chị không ngăn nổi hai dòng nước mắt, chạy ùa đến nép mình vào vai cha mong sự chở che. Lúc ấy, nhìn thấy khuôn mặt gầy gò hốc hác, cánh tay trần chằng chịt những vết sẹo của con gái, người cha từng trải việc đời đã lờ mờ hiểu chuyện khủng khiếp gì đã xảy ra với con gái mình. Ông không hỏi một lời mà chờ đến bữa cơm tối hôm đó, khi chị Hiền đã phần nào nguôi ngoai nỗi sợ, mới động viên để con gái kể lại toàn bộ khoảng thời gian sống chung đầy bi kịch với chồng. Quyết định tìm đến luật sư Nguyên để nhờ tư vấn, làm thủ tục ly hôn diễn ra sau đó như một hệ lụy tất yếu.

Chia sẻ cùng người viết, luật sư Nguyên kể: “Khi vụ ly hôn này khép lại, chị Hiền được phân chia một nửa tài sản và giành quyền nuôi đứa con gái nhỏ. Hiện giờ, người phụ nữ bất hạnh này cũng đã về hẳn Nghệ An, sống yên bình bên cạnh gia đình. Nhưng từ sâu thẳm trong lòng, tôi hiểu nỗi cay đắng mà chị đã phải chịu, vết thương lòng từ những ngày tháng phải sống trong sự bạo hành thì chắc còn lâu lắm, chị mới có thể xóa nhòa được”.

Gã chồng vũ phu đuổi đánh cả luật sư lẫn chính quyền
Trò chuyện cùng người viết, luật sư Nguyên bảo: “Nắm được toàn bộ câu chuyện của chị Hiền, tôi phải cùng thân chủ vào tận Đăk Nông giải quyết. Giáp mặt Thắng, tôi mới tưởng tượng được hết sự bạo ngược của gã đàn ông này. Không chỉ dọa giết vợ, anh ta còn cầm hung khí đuổi đánh cả luật sư lẫn chính quyền sở tại. Khi ra tòa, Thắng cũng nhất quyết không chịu ly hôn. Nhưng trước những bằng chứng bạo hành không th
ể chối cãi còn hằn trên thân thể chị Hiền, Tòa án đã quyết định trả tự do cho người phụ nữ”.

 Kỳ 2: Người đàn ông buộc phải ly hôn vì bị vợ… bạo hành tinh thần

Thanh Hiên ( theo giadinh.net.vn)

Cước vận tải nhấp nhổm tăng

Các doanh nghiệp vận tải, taxi, xe đò, xe buýt và các trường dạy lái xe, trung tâm sát hạch đang tính toán đến việc tăng giá cước vận tải, tăng phí học lái xe sau khi cơ quan chức năng thu phí bảo trì đường bộ (BTĐB).

Theo các doanh nghiệp, nếu không tăng giá thì không còn lợi nhuận.

Sau tết sẽ tăng cước vận tải

Theo ông Nguyễn Văn Dũng – chủ nhiệm Hợp tác xã vận tải và dịch vụ du lịch Sài Gòn (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), mức thu phí BTĐB đã trở thành gánh nặng cho các xã viên hợp tác xã với 140 xe đò của đơn vị đang hoạt động ở bến xe miền Đông phải đóng 672 triệu đồng/năm phí BTĐB.

Trong khi Bộ Giao thông vận tải đã cho giải thể 17 trạm thu phí trên các tuyến quốc lộ, nhưng thực tế tại TP.HCM (hiện có sáu trạm thu phí) không có trạm thu phí nào giải thể. Như vậy, ôtô hoạt động ở TP.HCM vẫn phải chịu phí chồng phí: vừa nộp phí cho trạm thu phí vừa nộp phí BTĐB. “Dự kiến sau Tết Nguyên đán 2013 hợp tác xã sẽ tăng giá vé xe đò” – ông Dũng nhấn mạnh.

Đề nghị không thu phí đối với xe buýtTheo ông Phùng Đăng Hải – tổng giám đốc Liên hiệp hợp tác xã vận tải TP.HCM, Bộ Giao thông vận tải nên xem xét không thu phí BTĐB đối với xe buýt. Trước hết là góp phần cùng TP giảm ngân sách TP trợ giá cho xe buýt và để không tăng giá vé xe buýt. Hơn nữa, hiện nay toàn bộ xe buýt đã chịu chi phí khi đi qua các trạm thu phí ở TP.HCM. Trong khi đó, ông Bùi Văn Quản – chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM – khẳng định tiếp tục kiến nghị cấp thẩm quyền không thu phí đối với rơmooc và nên cho thu phí BTĐB từng tháng vì tháng nào doanh nghiệp duy tu, sửa chữa xe sẽ không nộp phí.

Tương tự, ông Lê Đức Thành, giám đốc Công ty Thành Bưởi, cho biết doanh nghiệp hiện phải chịu rất nhiều loại phí khác nhau, nay thêm phí BTĐB nên càng khó khăn hơn. Nhà nước ra quy định thì tất nhiên doanh nghiệp phải đóng, nhưng ở góc độ doanh nghiệp kinh doanh vận tải thì không có cách nào khác là phải điều chỉnh nguồn thu, tức là phải tăng giá cước vận tải. “Từ nay đến Tết Nguyên đán 2013, do giá vé được phụ thu thêm 60% nên chưa cần tăng giá cước. Qua Tết Nguyên đán, doanh nghiệp sẽ có lộ trình tăng giá cước cụ thể để thông báo với hành khách và các đơn vị liên quan” – ông Thành cho biết.

Không chỉ xe đò, các hãng taxi cũng đang cân nhắc việc tăng giá cước taxi. Ông Tạ Long Hỷ – giám đốc Hãng taxi Vinasun – ước tính với 4.500 taxi hoạt động mỗi năm phải đóng gần 10 tỉ đồng phí BTĐB khiến doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận.

Ông Nguyễn Đỗ Phương, trợ lý chủ tịch hội đồng quản trị Tập đoàn Mai Linh, nói Hãng taxi Mai Linh có khoảng 12.000 xe đang hoạt động, tính theo mức phí BTĐB thì mỗi năm Mai Linh sẽ chi thêm 20 tỉ đồng. Hãng Vinasun và Mai Linh khẳng định qua Tết Nguyên đán 2013 sẽ cùng các doanh nghiệp taxi khác bàn về lộ trình tăng cước.

Về mức thu phí BTĐB với xe buýt trên 40 chỗ ngồi là 7,1 triệu đồng/xe/năm, ông Phùng Đăng Hải, tổng giám đốc Liên hiệp hợp tác xã vận tải TP.HCM, cho rằng như vậy là quá nặng. Theo ông Hải, nếu ngân sách không trợ giá cho xe buýt về phí BTĐB thì nên xem xét cho các doanh nghiệp vận tải xe buýt được tăng giá vé.

Bởi vì nộp thêm phí BTĐB trong khi giá vé không tăng hoặc không được trợ giá thì xã viên xe buýt sẽ bị lỗ nặng. Ông Nguyễn Văn Triệu, chủ nhiệm Hợp tác xã xe buýt 19-5, xác định hợp tác xã sẽ có buổi làm việc với các xã viên đang quản 420 xe buýt về quyết định có nên kiến nghị tăng giá vé hay không.

Mặc dù chưa tính toán cụ thể sẽ tăng giá cước vận tải hàng hóa nhưng ông Bùi Văn Quản – chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM – cho rằng các doanh nghiệp vận tải sẽ thương lượng với chủ hàng để điều chỉnh giá cước vận tải ở mức hợp lý.

Trong khi đó theo một số trường đào tạo lái ôtô ở TP.HCM, Bộ Giao thông vận tải quy định bắt đầu từ năm 2013 các trường phải tăng thời lượng đào tạo lái ôtô số tự động và nay lại có thêm việc nộp phí BTĐB khiến học phí đào tạo lái xe không đủ bù đắp chi phí. Ông Nguyễn Trọng Điệp – phó hiệu trưởng Trường cao đẳng Giao thông vận tải TP.HCM – thông tin sắp tới nhà trường sẽ bàn bạc điều chỉnh mức học phí lái xe vào thời điểm phù hợp.

Kiến nghị… sửa đường

Theo ông Vũ Đức Thiệu – hiệu trưởng Trường cao đẳng nghề Giao thông vận tải trung ương 3 (Q.Tân Phú), nếu lấy lý do nộp phí BTĐB để tăng học phí đào tạo lái xe là điều bất cập vì học phí tăng sẽ gây khó khăn cho người học lái.

Do đó, trường kiến nghị Bộ Giao thông vận tải không nên thu phí BTĐB đối với xe tập lái vì xe này chỉ là phương tiện để giảng dạy.

Ông Nguyễn Hoàng Long – giám đốc Trung tâm sát hạch Hoàng Gia (huyện Bình Chánh) – cho rằng để giảm gánh nặng cho người học lái ôtô, Bộ Giao thông vận tải nên miễn, giảm phí BTĐB đối với xe tập lái và miễn nộp phí BTĐB đối với xe thi sát hạch (có gắn thiết bị điện tử) do các xe này chỉ hoạt động trong trung tâm sát hạch, không lăn bánh trên đường.

Các trường cho biết sẽ tiếp tục kiến nghị Sở Giao thông vận tải TP đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét miễn giảm phí đối với các loại xe tập lái, xe thi sát hạch.

Ông Lê Đức Thành cũng kiến nghị sau khi thu phí BTĐB, cơ quan nhà nước cần phải đầu tư tốt chất lượng đường sá để các doanh nghiệp đỡ bớt khoản phí… sửa xe. Ông Thành giải thích do quốc lộ 14 và quốc lộ 20 rất xấu nên mỗi năm các doanh nghiệp phải bỏ ra một số tiền lớn để sửa chữa xe do mặt đường xấu gây ra, trong khi phí BTĐB vẫn phải đóng.

NGỌC ẨN – MẬU TRƯỜNG

Luật tố tụng hành chính 2012

LUẬT

Tố tụng hành chính

 

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;

Quốc hội ban hành Luật Tố tụng hành chính.

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hành chính; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan; trình tự, thủ tục khởi kiện, giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.

Điều 2. Hiệu lực của Luật Tố tụng hành chính

1. Luật Tố tụng hành chính được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng hành chính trên toàn lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam.

2. Luật Tố tụng hành chính được áp dụng đối với hoạt động tố tụng hành chính do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNamtiến hành ở nước ngoài.

3. Luật Tố tụng hành chính được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế thuộc đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì nội dung vụ án hành chính có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.

2. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là văn bản thể hiện dưới hình thức quyết định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình.

4. Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là những quyết định, hành vi quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó.

5. Đương sự bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

6. Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri.

7. Người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, lập danh sách cử tri bị khởi kiện.

8. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Toà án chấp nhận hoặc được Toà án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

9. Cơ quan, tổ chức bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân.

Điều 4. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hành chính

Mọi hoạt động tố tụng hành chính của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Luật này.

Điều 5. Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này.

Điều 6. Giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính

Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Trường hợp trong vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chưa có điều kiện để chứng minh thì Toà án có thể tách yêu cầu bồi thường thiệt hại để giải quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

Điều 7. Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án hành chính. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi kiện của người khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình theo quy định của Luật này.

Điều 8. Cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính

1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

2. Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Luật này quy định.

Điều 9. Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án, Viện kiểm sát; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.

Điều 10. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính

1. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp.

2. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.

3. Các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

Điu 11. Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

1. Đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2. Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Điều 12. Đối thoại trong tố tụng hành chính

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án.

Điều 13. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án hành chính

Việc xét xử vụ án hành chính có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Luật này. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Điều 14. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Khi xét xử vụ án hành chính, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp, cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.

Điều 15. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính

1. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

2. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

3. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc; giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.

4. Người tiến hành tố tụng hành chính có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì cơ quan có người tiến hành tố tụng đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

download văn bản tại đây

 

Luật thương mại 2005

QUỐC HỘI
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số: 36/2005/QH11

Hà Nội, ngày 14 tháng 06 năm 2005

 

LUẬT

THƯƠNG MẠI

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về hoạt động thương mại.

CHƯƠNG I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

MỤC 1

PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

1. Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam.

2. Hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp các bên thoả thuận chọn áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này.

3. Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này.

Điều 2. Đối tượng áp dụng

1. Thương nhân hoạt động thương mại theo quy định tại Điều 1 của Luật này.

2. Tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.

3. Căn cứ vào những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật này đối với cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

2. Hàng hóa bao gồm:

a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;

b) Những vật gắn liền với đất đai.

3. Thói quen trong hoạt động thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên mặc nhiên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại.

4. Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.

5. Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử.

6. Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại ViệtNamlà đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập theo quy định của pháp luật ViệtNamđể tìm hiểu thị trường và thực hiện một số hoạt động xúc tiến thương mại mà pháp luật ViệtNamcho phép.

7. Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập và hoạt động thương mại tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

8. Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.

9. Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.

10. Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại.

11. Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại.

12. Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này.

13. Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.

14. Xuất xứ hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó.

15. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Điều 4. Áp dụng Luật thương mại và pháp luật có liên quan

1. Hoạt động thương mại phải tuân theo Luật thương mại và pháp luật có liên quan.

2. Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó.

3. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.

Điều 5. Áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế

download văn bản tại đây

Sửa đổi Hiến pháp bảo đảm đổi mới đồng bộ kinh tế, chính trị

Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhấn mạnh trong Tờ trình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, do Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý trình bày trước Quốc hội sáng qua (29/10), rằng “cần sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.

Làm sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ XHCN

Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đã tạo cơ sở chính trị – pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp.

Vì vậy, “cần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế”.

Ủy ban đã xác định 9 nội dung cơ bản sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là để tiếp tục thể chế hóa và làm sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong quan hệ quốc tế; tạo cơ sở hiến định để Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thực hiện quyền, nghĩa vụ quốc gia, góp phần giữ gìn hòa bình khu vực và thế giới, sửa đổi kỹ thuật lập hiến và quy trình sửa đổi Hiến pháp để bảo đảm hiệu lực, tính ổn định, lâu dài của Hiến pháp.

Dự thảo Hiến pháp sau khi sửa đổi, bổ sung có 11 chương, 126 điều (giảm 1 chương, 21 điều, giữ nguyên 18 điều , sửa đổi 95 điều và bổ sung 13 điều mớiso với Hiến pháp năm 1992).

Không lập cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp

Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, Dự thảo Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; bổ sung 2 thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước.

Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng nhấn mạnh, cần tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành của Hiến pháp năm 1992. Vì thế, cần tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu quả, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt là Ủy ban pháp luật của Quốc hội trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật; đồng thời, tiếp tục  giao Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, HĐND, UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành hoặc thuộc phạm vi kiểm tra, giám sát, quản lý của mình. Không thành lập cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp.

Trong điều kiện của hệ thống chính trị nước ta thì Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1992 thấy rằng, trưng cầu ý dân về Hiến pháp là sự kiện hệ trọng, nên giao cho Quốc hội quyền cân nhắc và quyết định để phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi giai đoạn…

Tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét, thảo luận, cho ý kiến lần đầu về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thông qua Nghị quyết về việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.Trên cơ sở ý kiến thảo luận của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và phối hợp với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, tổ chữu hữu quan tổ chức lấy ý kiến nhân dân theo Nghị quyết của Quốc hội.Trên cơ sở ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban sẽ tập hợp, tổng hợp và dự kiến tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2013); sau đó tiếp tục hoàn thiện trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2013).

Huy Anh

Cần chế tài việc cản trở quyền có luật sư của nghi can

Công ty Luật

Đề nghị bỏ quy định giấy chứng nhận bào chữa trong tố tụng hình sự và nếu có giữ thì phải quy định rõ là có hình thức xử lý thật nghiêm khắc các hành vi cản trở, trì hoãn quyền có luật sư của nghi can và bị can.

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM) nêu khi Quốc hội thảo luận về dự án sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư, ngày 23- 10.

Đại biểu Huỳnh Nghĩa (TP Đà Nẵng) cũng đề nghị luật nên quy định theo hướng rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận bào chữa, cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho luật sư từ ba ngày có thể xuống còn một ngày làm việc. Đồng thời, bổ sung chế tài xử lý đối với các hành vi trì hoãn việc cấp giấy chứng nhận bào chữa, giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho luật sư.

Chiều 23-10, tại kỳ họp QH, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của QH Phan Xuân Dũng đã báo cáo giải trình tiếp thu của Ủy ban Thường vụ QH (TVQH) về dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực.

Theo đó, Ủy ban TVQH đề nghị không quy định về giá phân phối điện như trong dự thảo luật này. Vì Luật Giá đã được QH thông qua không quy định về giá phân phối điện. Qua tiếp thu đa số ý kiến đại biểu QH, Ủy ban TVQH đề nghị không thu phí điều tiết hoạt động điện lực vì đây là hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, phải được ngân sách Nhà nước bảo đảm.

Báo cáo cũng nêu lý do không đưa lĩnh vực điện hạt nhân và vấn đề an toàn hồ chứa của các nhà máy thủy điện vào dự thảo sửa đổi Luật Điện lực. Tuy nhiên, thảo luận tại hội trường, nhiều đại biểu bày tỏ băn khoăn, chưa an tâm về độ an toàn của các đập thủy điện và việc triển khai dự án điện hạt nhân… nên đề nghị đưa vào dự thảo trong lần sửa đổi Luật Điện lực này.

Công ty Luật Hưng Nguyên – THÀNH VĂN – BÌNH MINH

Giải pháp nào hạn chế hậu quả việc “tuyên án cho sướng miệng”?

Có muôn vàn lý do để án dân sự không thể thi hành, trong đó có những bất cập trong quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS). Những tồn tại này khiến cho cơ quan thi hành án “lao đao”, còn ngành Tòa án thì dù biết đấy nhưng vẫn “không thể làm khác”.

Công ty Luật Hưng Nguyên

Đó là những trường hợp người nghiện, người mang vác thuê, kể cả buôn bán ma túy để thỏa những cơn nghiện nhất thời. Họ không có tài sản, cơm ăn phải có người nuôi, thậm chí đến một địa chỉ cư trú cũng không có… thì việc thi hành án mấy chục triệu là điều “không tưởng”. Nhiều vụ chấp hành án xong, ra tù, người phải thi hành án bỏ địa phương đi “mất tích”, đến 50 ngàn án phí hình sự (nay là 200 ngàn) Nhà nước cũng không đòi được.

Ngành Thi hành án dân sự nhiều lần bức xúc vì cho rằng, các vị “quan tòa” chỉ tuyên án cho “sướng miệng”, mà không quan tâm xem việc tuyên đó liệu có khả thi không. Không chỉ là những vụ tuyên án trong khi người phạm tội không có tài sản, mà trong đó có cả những vụ tuyên nhầm, tuyên sai, tuyên không rõ địa chỉ… cũng làm cho lượng án tồn đọng ngày một tăng.

Đó là chưa kể, để lần tìm xem địa chỉ của đương sự ở đâu, tài sản như thế nào… nhiều phen thi hành án phải “mướt mải” năm lần bảy lượt hỏi Tòa. Có Tòa trả lời, có Tòa không, khiến cho việc thi hành án càng trở nên khó khăn, bế tắc.

Tuy nhiên, các Tòa án cũng có lý của riêng họ. Ví dụ như trước kia, theo quy định của BLHS, cứ “dính” đến ma túy là phạt tối thiểu 20 triệu, mặc dù Tòa thừa biết bị cáo đó tiền bạc không có một cắc cũng vẫn phải tuyên, vì nếu không tuyên, án sẽ bị hủy vì vi phạm pháp luật. Khoản tiền phạt đó cũng giống như khoản án phí chỉ 200 ngàn, nhiều người không có điều kiện nộp mà vẫn tuyên, dù biết sau đó “trách nhiệm” đổ lên vai thi hành án.

Căn cơ để giải quyết vấn đề này là sửa luật, trong đó có cả BLHS, cả Luật Thi hành án dân sự và các luật liên quan. Tuy nhiên, muốn sửa luật thì đòi hỏi cần có thời gian, theo một quy trình nhất định. Vì vậy, trước mắt để hạn chế việc án tuyên mà không thể thi hành thì ngành Tòa án cần tuyên những bản án chính xác, rõ ràng.

Các cơ quan tố tụng cần áp dụng kịp thời các biện pháp kê biên để tránh việc tẩu tán tài sản, đảm bảo cho quá trình thi hành án. Tự thân cơ quan thi hành án cũng phải nâng cao trách nhiệm của mình trong việc thi hành phần dân sự trong bản án hình sự.

Hiện nay, Đề án miễn thi hành án đối với những khoản thu cho ngân sách Nhà nước không có điều kiện thi hành tính đến ngày 1/7/2009 đã được trình Chính phủ, dự kiến được trình ra Quốc hội vào kỳ họp thứ 4 tới đây. Nếu Đề án được thông qua thì sẽ giải quyết được một lượng không nhỏ án đang “đọng” tại các cơ quan thi hành án dân sự.

Thắng Chung

Tìm công cụ pháp lý đảm bảo hàng “thật” cho chợ “ảo”

Giữa “cơn lốc” mang tên MB24, hôm qua (21/8), Bộ Công Thương và Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) phối hợp tổ chức hội thảo lấy ý kiến cho dự thảo nghị định mới, thay thế Nghị định về thương mại điện tử hiện hành…

Công ty Luật Hưng Nguyên

6 năm kể từ khi Nghị định về thương mại điện tử số 57/2006/NĐ-CP được ban hành, văn bản pháp lý này bị đánh giá là đã quá “lạc hậu, lỗi thời” so với thực tế phát triển thương mại điện tử Việt Nam.

Do đặc thù của hoạt động mua bán trên Internet là người mua và người bán không gặp mặt trực tiếp mà giao dịch trên không gian ảo, nên một số quy tắc trong giao dịch truyền thống không còn phù hợp hoặc thiếu quy định điều chỉnh. Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh qua mạng của các doanh nghiệp hiện nay đang phát triển khá tự phát và chưa có sự giám sát chặt của cơ quan quản lý nhà nước, từ đó phát sinh nhiều vấn đề như quảng cáo sai sự thật, lừa đảo, cạnh tranh không lành mạnh, trốn thuế… gây thiệt hại cho người tiêu dùng, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của đất nước.

Nhằm giải quyết một cách toàn diện những vấn đề nêu trên, Bộ Công Thương đề xuất xây dựng nghị định về thương mại điện tử mới thay thế Nghị định 57.

Phạm vi điều chỉnh của nghị định thương mại điện tử mới dự kiến gồm các hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng phương tiện điện tử trong một khâu hoặc toàn bộ quy trình giao dịch. Đối tượng áp dụng là các thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thương mại điện tử trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm: thương nhân, tổ chức, cá nhân Việt Nam; cá nhân nước ngoài cư trú tại Việt Nam; thương nhân, tổ chức nước ngoài có sự hiện diện tại Việt Nam thông qua hoạt động đầu tư, lập chi nhánh, văn phòng đại diện, hoặc thiết lập website dưới tên miền của Việt Nam.

Nghị định thương mại điện tử sửa đổi lần này, tập trung sửa đổi chương III về hoạt động thương mại điện tử là chương quan trọng nhất và chiếm khối lượng lớn nhất trong toàn bộ nội dung của nghị định.

Cụ thể về hoạt động của từng loại hình website thương mại điện tử, bao gồm hai nhóm chính là website thương mại điện tử bán hàng và website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, trong đó website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử lại chia thành ba loại: sàn giao dịch thương mại điện tử, website đấu giá trực tuyến và website khuyến mại trực tuyến.

Quy định về hoạt động của website thương mại điện tử bán hàng chủ yếu tập trung vào nghĩa vụ của chủ website trong việc cung cấp thông tin, từ thông tin về thương nhân cho đến thông tin về hàng hóa, dịch vụ, giá cả, vận chuyển, thanh toán, và các điều kiện giao dịch chung. Những quy định này nhằm đảm bảo sự minh bạch thông tin và bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng khi tham gia giao dịch trên website thương mại điện tử.

Nếu các website thương mại điện tử bán hàng giống như các cửa hàng đơn lẻ với một người bán và nhiều người mua, thì các website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử lại giống như trung tâm thương mại hoặc chợ điện tử, trên đó tập hợp nhiều người bán và nhiều người mua. Chủ sở hữu những website dạng này không trực tiếp bán hàng hóa và dịch vụ đầu cuối đến người tiêu dùng, mà chỉ đóng vai trò cung cấp môi trường để người mua và người bán gặp gỡ, kết nối nhu cầu và tiến hành giao dịch.

Mối quan hệ nhiều chiều giữa người mua, người bán và chủ website khiến sự phân định quyền và trách nhiệm trong mỗi giao dịch trên website trở nên phức tạp. Để giải quyết vấn đề đó, chương III nghị định đã quy định cụ thể trách nhiệm của các thương nhân, tổ chức chủ website và các thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, dịch vụ trên những website dạng này.

Chương III cũng quy định một số nội dung mang tính đặc thù với mỗi lại hình website khác nhau, như quy chế hoạt động của giao dịch thương mại điện tử, hợp đồng dịch vụ khuyến mại và thông tin về hàng hóa dịch vụ được khuyến mại trên website khuyến mại trực tuyến, hay các yếu tố mang tính kỹ thuật của một quy trình đấu giá tiến hành trên website đấu giá trực tuyến.

Vấn đề tối quan trọng đối với thương mại điện tử là sự an toàn an ninh, được quy định tại chương 5 của nghị định. Cụ thể, chương 5 quy định hai nội dung lớn là bảo vệ thông tin cá nhân và an toàn thanh toán trong thương mại điện tử.

Theo đó, quy định rõ các nguyên tắc cũng như cách thức thực hiện các nguyên tắc về bảo vệ thông tin cá nhân, từ việc thông báo và xin phép người tiêu dùng khi thu thập, sử dụng thông tin, cho đến nguyên tắc sử dụng, đảm bảo an toàn, kiểm tra, cập nhật và điều chỉnh cho thông tin cá nhân, cũng như trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện những quy định này.

Đồng thời, quy định các yêu cầu kỹ thuật đối với một hệ thống thanh toán trực tuyến trên website thương mại điện tử nhằm giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn cho thông tin thanh toán của khách hàng.

Mai Hoa

.Công ty Luật Hưng Nguyên

“Tôn vinh giới luật sư để góp phần thực thi công lý”

“Tôn vinh, hướng tới xây dựng một đội ngũ luật sư chất lượng, dày dạn kinh nghiệm, tin cậy về phẩm chất đạo đức sẽ góp phần tích cực bảo vệ quyền công dân, quyền con người, thực thi công lý” – Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường phát biểu.

Công ty Luật, luật sư

Tham dự buổi lễ có Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc; ông Hà Hùng Cường – Bộ trưởng Bộ Tư pháp; ông Nguyễn Hòa Bình – Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao; ông Phạm Quốc Anh – Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam; Luật sư Lê Thúc Anh – Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam cùng đại diện Đoàn Luật sư các tỉnh, thành phố, đại diện các Sở Tư pháp địa phương và đại diện các hãng luật trong cả nước.

10 tổ chức hành nghề luật sư tiêu biểu của năm 2012 được vinh danh, gồm: Công ty Luật hợp danh YKVN, Công ty Luật TNHH Vilaf Hồng Đức, Công ty Luật TNHH SMic, Công ty TNHH Invest Consult, Công ty TNHH Bizlink, Công ty TNHH Gia Phạm, Văn phòng Luật sư Nam Hà Nội, Văn phòng Luật sư Leadco, Văn phòng Luật sư Đức Quang, Văn phòng Luật sư Lê Nguyễn.

5 Luật sư tiêu biểu gồm Luật sư Nguyễn Văn Hậu; Luật sư Trịnh Văn Quyết – Tổng giám đốc Công ty Luật TNHH SMiC; Luật sư Lê Nết, điều hành Công ty Luật TNHH LCT; Luật sư Đoàn Thu Nga – Giám đốc Công ty TNHH Lawpro và Luật sư Phạm Thành Long – Trưởng Văn phòng Luật sư Gia Phạm.

Dự lễ trao trặng danh hiệu Hãng Luật và Luật sư tiêu biểu của năm 2012 (do Bộ Tư pháp và báo Pháp luật Việt Nam tổ chức) hôm qua, 27/8, Bộ trưởng Tư pháp nhấn mạnh, chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết 49 Bộ Chính trị đã đặt giới luật sư vào vị trí quan trọng trong việc tăng cường tranh tụng và tư vấn pháp lý.

“Thực tiễn thực hiện cải cách tư pháp vừa qua đã chứng minh rằng, không thể có phiên tòa xét xử theo tinh thần cải cách, nếu thiếu sự tham gia tranh tụng của các luật sư có năng lực, trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp. Và cũng không thể phát triển tốt hoạt động đầu tư kinh doanh, nếu thiếu sự tư vấn pháp luật đúng đắn của luật sư, cũng như để hội nhập quốc tế thành công, không thể không có những luật sư nắm vững pháp luật quốc tế và thông thạo ngoại ngữ” – ông Hà Hùng Cường phân tích.

Vì vậy, hoạt động bình chọn danh hiệu Hãng luật và Luật sư tiêu biểu được Thủ tướng phê duyệt tổ chức ba năm một lần nhằm để tôn vinh những tổ chức hành nghề luật sư, luật sư có thành tích cao, có đóng góp thiết thực cho cộng đồng bằng hoạt động nghề nghiệp của mình.

Năm nay, có 10 tổ chức hành nghề luật sư vào 5 luật sư tiêu biểu được bình chọn, vinh danh. Đây là những hãng luật liên tục xếp thứ hạng cao trong bảng đánh giá chất lượng và chỉ dẫn dịch vụ của các tổ chức nước ngoài khi đánh giá, xếp hạng các tổ chức hành nghề luật sư và đánh giá các thương hiệu trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý tại Việt Nam. Các luật sư được vinh danh cũng là những gương mặt điển hình trong giới luật sư Việt Nam. Họ tiêu biểu cho những luật sư trẻ, đầy khát vọng nghề nghiệp, là những cá nhân xuất sắc trong nghề, có những đóng góp tích cực cho sự phát triển nghề luật sư, đồng thời có những đóng góp có ý nghĩa vì lợi ích của cộng đồng.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Hà Hùng Cường cũng cho rằng, các tổ chức luật sư và luật sư được giải lần này mới chỉ là những đại diện tiêu biểu của cả giới luật sư cả nước, vì có không ít tổ chức luật sư, luật sư có rất nhiều thành tích, nhưng vì một lý do nào đó đã không tham gia cuộc bình chọn này. Vị tư lệnh của ngành tư pháp bày tỏ hy vọng các đợt bình chọn tiếp theo sẽ có nhiều tổ chức luật sư và luật sư tiêu biểu được trao tặng các danh hiệu này.

“Tôn vinh, hướng tới xây dựng một đội ngũ luật sư ngày càng đông đảo về số lượng, mạnh về chất lượng chuyên môn, dày dạn về kinh nghiệm và tin cậy về phẩm chất đạo đức sẽ góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân cũng như vào việc bảo vệ quyền công dân, quyền con người, thực thi công lý” – Bộ trưởng Tư pháp nhấn mạnh.

Công ty Luật Hưng Nguyên

Khó tăng lương trong năm 2013

Chính phủ cho biết cân đối ngân sách năm tới chưa tìm được nguồn để chi cải cách tiền lương. Tuy nhiên, các ý kiến tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng vẫn nên thực hiện việc làm được coi là “thường niên” này.

công ty luật, tư vấn luật,

Báo cáo của Chính phủ về kế hoạch ngân sách 2013, được Bộ trưởng Vương Đình Huệ trình bày trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 16/10 cho biết dự toán chưa thể bố trí nguồn thực hiện chi cải cách tiền lương theo lộ trình trong năm tới. Lý do được đưa ra là bối cảnh kinh tế 2013 tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thu ngân sách tăng thấp trong khi nhiều nhiệm vụ chi chỉ có thể thực hiện ở mức tối thiểu hoặc không bố trí được nguồn.

Quan điểm này cũng được Ủy ban Tài chính – ngân sách cơ bản đồng tình bởi mức độ khó khăn cũng như việc tăng mức lương tối thiểu gần như đã được thực hiện thường niên (8 lần trong thời gian từ tháng 1/2003 đến tháng 5/2012). Trong những năm gần đây, mức tăng lương cũng được đẩy lên khá cao, từ 730.000 đồng lên 830.000 đồng năm 2011 và lên 1,05 triệu đồng năm 2012, góp phần giải quyết thu nhập, đời sống của cán bộ, công chức, người lao động. Do đó, khi cân đối thu chi gặp nhiều khó khăn, việc xem xét nguồn tăng lương cũng cần được tính tới.

Tuy vậy, bản thân trong nội bộ cơ quan thẩm tra cũng có ý kiến cho rằng Chính phủ nên thực hiện một phần lộ trình tăng mức lương tối thiểu lên 1,15 triệu đồng và phụ cấp công vụ từ 25% lên 30%, từ 1/5/2013. Nguồn bố trí tăng thêm sẽ lấy từ việc tăng thu nội địa và dầu khí.

Riêng vấn đề lương tối thiểu tại khu vực doanh nghiệp, theo đề án trước đó được Bộ Lao động – thương binh – xã hội trình Chính phủ, mức tăng dự kiến trong năm 2013 là từ 1,4 – 1,7 triệu (tuy loại hình doanh nghiệp) lên 2 – 2,4 triệu đồng. Phát biểu trong phiên thảo luận ngày 16/10, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội – Trương Thị Mai tỏ ra rất quan tâm đến vấn đề này vì theo bà, đây là vấn đề ảnh hưởng đến quyền lợi, đời sống của khoảng 22 triệu người. “Thường đây cũng là thời điểm phải công bố lộ trình tăng lương để các doanh nghiệp chủ động xây dựng phương án kinh doanh cho năm sau”, bà Mai nói thêm.

Tuy nhiên, trả lời chất vấn này, đại diện Bộ Lao động cho biết đề án đã hoàn thành nhưng đang đợi phê duyệt ở cấp Chính phủ (dự kiến công bố trong tháng 10). Do đó tại thời điểm này, Bộ chưa thể công khai chi tiết đề án.

Công ty Luật Hưng Nguyên