Không thể trao quyền nổ súng trực tiếp cho người thi hành công vụ

Tại Dự thảo Nghị định về các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ có nêu: Công an được quyền nổ súng vào người chống người thi hành công vụ. Nếu dành cho người thi hành công vụ quyền nổ súng vào người chống người thi hành công vụ sẽ rất nguy hiểm, có thể dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa tính mạng, sức khỏe người dân.

Không nhất thiết trao quyền nổ súng

Trên thực tế, Công an hay đội ngũ người thi hành công vụ cũng là con người, một bộ phận không nhỏ trong số họ có tuổi đời còn rất trẻ nên có thể nhận thức chủ quan, duy ý chí, dễ lạm dụng quyền để chứng tỏ mình là người được Nhà nước giao quyền, nắm quyền lực Nhà nước.

Bên cạnh đó, nhiều trường hợp xảy ra việc chống người thi hành công vụ là do người thi hành công vụ hành xử thái quá, thiếu chuyên nghiệp. Hơn nữa các tình huống thường diễn ra rất nhanh, nếu người thi hành công vụ nổ súng, sau đó lấy gì để chứng minh rằng họ đã làm đúng, ngược lại lấy gì để chứng minh người chống người thi hành công vụ đã sai tới mức lực lượng chức năng phải nổ súng?

 Ngoài ra, đa số không cần thiết phải nổ súng bằng đạn thật bởi có thể bắn súng hơi, súng cao su, súng hơi cay…cũng có thể khống chế được người chống người thi hành công vụ.

Hiện nay, nước ta đang tiến tới sửa đổi Hiến pháp theo hướng tăng nhân quyền nhưng bản thân đề xuất trên đã đi ngược lại chủ trương này. Do vậy, để đảm bảo duy trì trật tự xã hội cần có sự phối hợp từ nhiều phía, trong đó bản thân những người thi hành công vụ cũng cần phải được đào tạo kỹ lưỡng, chuyên nghiệp hơn chứ không nhất thiết phải trao cho họ quyền nổ súng để giải quyết vấn đề.

Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành giành cho người thi hành công vụ được quyền phòng vệ chính đáng. Điều 15 BLHS quy định rõ: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên; Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm;  Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại; Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.

Vấn đề đặt ra là cán bộ, chiến sĩ công an, lực lượng thi hành công vụ nói chung cần vận dụng chính xác các quy định về cách thức phòng vệ chính đáng đúng mực, phù hợp với pháp luật. Phòng vệ chính đáng là sự “đánh trả” tương xứng với hành vi chống đối người thi hành công vụ. Theo luật: Phòng vệ chính đáng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trái lại, nếu người thi hành công vụ hành động thái quá, vượt quá giới hạn cho phép thì phải chịu trách nhiệm hình sự.

Dư luận lo ngại!

Mặt khác, việc chứng minh vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng không phải đơn giản vì khi xảy ra xô xát giữa người chống đối và người thi hành công vụ diễn ra “chớp nhoáng” khó “tái hiện” đầy đủ, chính xác để quy trách nhiệm thuộc về ai.

Ngoài ra, người thi hành công vụ dễ nảy sinh tâm lý chủ quan với nhận thức họ là người mặc sắc phục, đeo quân hàm, được trang bị vũ khí, dẫn tới hành động thái quá theo kiểu “vung tay quá trán” vượt quá quyền hạn, nhiệm vụ được giao.

Thực tiễn cuộc sống, khi xảy ra vụ án chống người thi hành công vụ, thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng ít nhiều có thói quen bảo vệ người thi hành công vụ hơn là người xung đột với người thi hành công vụ. Mặc dù đó đây xảy ra tình trạng người thi hành công vụ chuyên nghiệp, hay tham gia mang tính hỗ trợ (dân phòng, dân quân tự vệ, hiệp sĩ đường phố…) hành động nông nổi, muốn chứng tỏ quyền hành đối với người khác nên có lời nói, việc làm thiếu cân nhắc.

Thậm chí đặt người dân vào thế khó xử phải phản ứng lại do bức xúc cao độ, không kiềm chế được hành vi chống đối người thi hành công vụ. Không loại trừ tình huống người thi hành công vụ “đục nước béo cò” lợi dụng lúc thi hành công vụ thị uy người dám chống lại họ, khi xảy ra “lời qua tiếng lại” giữa người thi hành công vụ với người chống người thi hành công vụ.

TS. Đỗ Chí Nghĩa thật chí lý khi phát biểu: … Đứng trước sinh mạng con người, quy định chung chung hay trông chờ vào hành xử và nhận thức cụ thể của cá nhân thi hành công vụ không phải là cách thích hợp trong một nhà nước pháp quyền…

Chưa kể khi cảnh sát được tăng quyền dùng súng thì tội phạm cũng sẽ manh động hơn để đối phó. Sự lo ngại của dư luận về quy định cho phép bắn thẳng vào đối tượng chống người thi hành công vụ mà thiếu những quy định thật chi tiết, xác thực, cụ thể và thuyết phục đi kèm sẽ thành tiếng kêu cứu nếu những quy định này làm phát sinh những cái chết đau lòng… Họng súng thì vô tình, không nên để sự lạm quyền đâu đó làm nhạt nhoà những tấm gương vì dân, vì nước như hai phi công quả cảm đã chọn cái chết để bảo vệ sinh mạng nhân dân.

Dứt khoát không thể lập luận: Nổ súng trực tiếp để vô hiệu hóa các trường hợp có dấu hiệu của tội chống người thi hành công vụ nghiêm trọng. Chuẩn mực nào dùng làm căn cứ xác định dấu hiệu của tội phạm một cách chính xác? Quy định thiếu chặt chẽ về dấu hiệu của tội phạm chắc chắn sẽ khó tránh khỏi tình trạng lạm quyền gây hậu quả khó lường một khi ai đó đụng tới “ông Kẹ”!

.LS. Trần Công Ly Tao, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM

Vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý

(VBF) – Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Với ý nghĩa và mục tiêu quan trọng của trợ giúp pháp lý, kể từ khi thành lập cho đến nay Liên đoàn luật sư Vệt Nam đã không ngừng có những định hướng, những biện pháp nhằm thúc đây các tổ chức trong Liên đoàn và Đoàn luật sư các tỉnh, thành phố trong toàn quốc đẩy mạnh công tác trợ giúp pháp lý, đưa hoạt động trợ giúp pháp lý đến với người dân, để người dân hiểu và đặt niềm tin vào trợ giúp pháp lý.
Trong năm 2012, Trung tâm tư vấn pháp luật Liên đoàn luật sư Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều buổi trợ giúp pháp lý lưu động trong đó phải kể đến Ngày tư vấn pháp luật miễn phí cho cộng đồng tại tỉnh Quảng Ninh 14/09/2012
Dưới sự chỉ đạo của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư các tỉnh, thành phố cũng không ngừng khuyến khích các tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư thành viên tham gia công tác trợ giúp pháp lý.
Xác định Trợ giúp pháp lý là nghĩa vụ cao quý của luật sư, trong những năm qua các luật sư thành viên của Đoàn luật sư các tỉnh, thành phố đã rất tích cực hưởng ứng các hoạt động trợ giúp pháp lý trên nhiều lĩnh vực. Đó có thể là trợ giúp pháp lý trong các vụ án, đó có thể là đại diện ngoài tố tụng, đó có thể là trợ giúp pháp lý lưu động…
Riêng ở Hà Nội, theo con số thống kê của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước TP Hà Nội tính đến thời điểm hiện nay đã có hơn 300 luật sư của Đoàn luật sư TP Hà Nội tham gia với tư cách là luật sư Cộng tác viên của Trung tâm. Họ đều là những luật sư rất tâm huyết với công tác trợ giúp pháp lý. Đó là chưa kể số lượng luật sư tham gia vào các tổ chức xã hội khác có thực hiện các hoạt động trợ giúp pháp lý như Hội luật gia; trung tâm tư vấn pháp luật Liên đoàn luật sư Việt Nam; Hội bảo trợ tư pháp cho người nghèo…
Có thể nói luật sư tham gia trợ giúp pháp lý là một hoạt động có tính nhân văn, được xã hội thừa nhận.
Trong lĩnh vực tham gia tố tụng: Luật sư tham gia trợ giúp pháp lý với tư cách là người bào chữa cho các bị can, bị cáo người bị tạm giữ trong các vụ án Hình sự hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong các vụ án Dân sự, Hành chính, Lao động, Ly hôn, người bị hại trong các vụ án hình sự.Họ là những người thuộc diện được trợ giúp pháp lý.
Ngoài ra luật sư cũng trợ giúp pháp lý cho người chưa thành niên; người có nhược điểm về thể chất tâm thần; người có khung hình phạt cao nhất là tử hình theo quy định tại Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự… theo sự phân công của Trung tâm trợ giúp pháp lý, Đoàn luật sư và Tổ chức hành nghề luật sư trên cơ sở yêu cầu trợ giúp pháp lý của người thuộc diện trợ giúp pháp lý hoặc của Cơ quan tiến hành tố tụng.
Có luật sư tham gia trợ giúp pháp lý, quyền và lợi ích hợp pháp của các bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, bị hại và các đương sự trong các vụ án được đảm bảo hơn. Đây là điều mà chính các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng phải thừa nhận.
Trong lĩnh vực đại diện ngoài tố tụng: Luật sư sẽ cùng người dân hoặc thay mặt người dân – những đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý để làm việc với các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết các vụ việc liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Thông thường, luật sư tham gia đại diện ngoài tố tụng thể hiện trong các lĩnh vực như Hành chính, Lao động, Khiếu nại…
Trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý lưu động: Luật sư sẽ cùng một số các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý như Trung tâm trợ giúp pháp lý, các Chi nhánh trợ giúp pháp lý, Đoàn luật sư; Hội luật gia… đi về các địa phương để trực tiếp tuyên truyền, tư vấn pháp luật cho người dân để người dân hiểu và tuân theo pháp luật. Luật sư có thể làm Báo cáo viên giảng giải những vấn đề pháp luật mà người dân quan tâm trong các buổi tuyên truyền đó.
Có thể nói, thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, luật sư đã đem đến cho người dân những thông tin pháp luật hữu ích, giải đáp những thắc mắc, giúp người dân hiểu hơn về các trình tự, thủ tục hành chính cần thiết khi giải quyết công việc, tránh việc đi lại nhiều lần dẫn đến tốn kém thời gian, tiền bạc và công sức của người dân, những người được trợ giúp pháp lý. Những vụ việc của họđược những luật sư trợ giúp pháp lý tư vấn, đại diện, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết vụ việc nhanh chóng, đúng pháp luật, góp phần rất lớn vào công cuộc cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
Trong một số trường hợp, bằng sự trợ giúp pháp lý của mình, luật sư còn giúp chính quyền giải tỏa những vụ việc vướng mắc pháp luật, giải quyết những bất cập giữa chính quyền với dân trong đời sống hằng ngày tại địa phương, giữ gìn sự đoàn kết trong cộng đồng, giảm bớt các khiếu kiện vượt cấp, góp phần tạo niềm tin của nhân dân với chính quyền, làm cho người dân luôn “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”./.

Cước vận tải nhấp nhổm tăng

Các doanh nghiệp vận tải, taxi, xe đò, xe buýt và các trường dạy lái xe, trung tâm sát hạch đang tính toán đến việc tăng giá cước vận tải, tăng phí học lái xe sau khi cơ quan chức năng thu phí bảo trì đường bộ (BTĐB).

Theo các doanh nghiệp, nếu không tăng giá thì không còn lợi nhuận.

Sau tết sẽ tăng cước vận tải

Theo ông Nguyễn Văn Dũng – chủ nhiệm Hợp tác xã vận tải và dịch vụ du lịch Sài Gòn (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), mức thu phí BTĐB đã trở thành gánh nặng cho các xã viên hợp tác xã với 140 xe đò của đơn vị đang hoạt động ở bến xe miền Đông phải đóng 672 triệu đồng/năm phí BTĐB.

Trong khi Bộ Giao thông vận tải đã cho giải thể 17 trạm thu phí trên các tuyến quốc lộ, nhưng thực tế tại TP.HCM (hiện có sáu trạm thu phí) không có trạm thu phí nào giải thể. Như vậy, ôtô hoạt động ở TP.HCM vẫn phải chịu phí chồng phí: vừa nộp phí cho trạm thu phí vừa nộp phí BTĐB. “Dự kiến sau Tết Nguyên đán 2013 hợp tác xã sẽ tăng giá vé xe đò” – ông Dũng nhấn mạnh.

Đề nghị không thu phí đối với xe buýtTheo ông Phùng Đăng Hải – tổng giám đốc Liên hiệp hợp tác xã vận tải TP.HCM, Bộ Giao thông vận tải nên xem xét không thu phí BTĐB đối với xe buýt. Trước hết là góp phần cùng TP giảm ngân sách TP trợ giá cho xe buýt và để không tăng giá vé xe buýt. Hơn nữa, hiện nay toàn bộ xe buýt đã chịu chi phí khi đi qua các trạm thu phí ở TP.HCM. Trong khi đó, ông Bùi Văn Quản – chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM – khẳng định tiếp tục kiến nghị cấp thẩm quyền không thu phí đối với rơmooc và nên cho thu phí BTĐB từng tháng vì tháng nào doanh nghiệp duy tu, sửa chữa xe sẽ không nộp phí.

Tương tự, ông Lê Đức Thành, giám đốc Công ty Thành Bưởi, cho biết doanh nghiệp hiện phải chịu rất nhiều loại phí khác nhau, nay thêm phí BTĐB nên càng khó khăn hơn. Nhà nước ra quy định thì tất nhiên doanh nghiệp phải đóng, nhưng ở góc độ doanh nghiệp kinh doanh vận tải thì không có cách nào khác là phải điều chỉnh nguồn thu, tức là phải tăng giá cước vận tải. “Từ nay đến Tết Nguyên đán 2013, do giá vé được phụ thu thêm 60% nên chưa cần tăng giá cước. Qua Tết Nguyên đán, doanh nghiệp sẽ có lộ trình tăng giá cước cụ thể để thông báo với hành khách và các đơn vị liên quan” – ông Thành cho biết.

Không chỉ xe đò, các hãng taxi cũng đang cân nhắc việc tăng giá cước taxi. Ông Tạ Long Hỷ – giám đốc Hãng taxi Vinasun – ước tính với 4.500 taxi hoạt động mỗi năm phải đóng gần 10 tỉ đồng phí BTĐB khiến doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận.

Ông Nguyễn Đỗ Phương, trợ lý chủ tịch hội đồng quản trị Tập đoàn Mai Linh, nói Hãng taxi Mai Linh có khoảng 12.000 xe đang hoạt động, tính theo mức phí BTĐB thì mỗi năm Mai Linh sẽ chi thêm 20 tỉ đồng. Hãng Vinasun và Mai Linh khẳng định qua Tết Nguyên đán 2013 sẽ cùng các doanh nghiệp taxi khác bàn về lộ trình tăng cước.

Về mức thu phí BTĐB với xe buýt trên 40 chỗ ngồi là 7,1 triệu đồng/xe/năm, ông Phùng Đăng Hải, tổng giám đốc Liên hiệp hợp tác xã vận tải TP.HCM, cho rằng như vậy là quá nặng. Theo ông Hải, nếu ngân sách không trợ giá cho xe buýt về phí BTĐB thì nên xem xét cho các doanh nghiệp vận tải xe buýt được tăng giá vé.

Bởi vì nộp thêm phí BTĐB trong khi giá vé không tăng hoặc không được trợ giá thì xã viên xe buýt sẽ bị lỗ nặng. Ông Nguyễn Văn Triệu, chủ nhiệm Hợp tác xã xe buýt 19-5, xác định hợp tác xã sẽ có buổi làm việc với các xã viên đang quản 420 xe buýt về quyết định có nên kiến nghị tăng giá vé hay không.

Mặc dù chưa tính toán cụ thể sẽ tăng giá cước vận tải hàng hóa nhưng ông Bùi Văn Quản – chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM – cho rằng các doanh nghiệp vận tải sẽ thương lượng với chủ hàng để điều chỉnh giá cước vận tải ở mức hợp lý.

Trong khi đó theo một số trường đào tạo lái ôtô ở TP.HCM, Bộ Giao thông vận tải quy định bắt đầu từ năm 2013 các trường phải tăng thời lượng đào tạo lái ôtô số tự động và nay lại có thêm việc nộp phí BTĐB khiến học phí đào tạo lái xe không đủ bù đắp chi phí. Ông Nguyễn Trọng Điệp – phó hiệu trưởng Trường cao đẳng Giao thông vận tải TP.HCM – thông tin sắp tới nhà trường sẽ bàn bạc điều chỉnh mức học phí lái xe vào thời điểm phù hợp.

Kiến nghị… sửa đường

Theo ông Vũ Đức Thiệu – hiệu trưởng Trường cao đẳng nghề Giao thông vận tải trung ương 3 (Q.Tân Phú), nếu lấy lý do nộp phí BTĐB để tăng học phí đào tạo lái xe là điều bất cập vì học phí tăng sẽ gây khó khăn cho người học lái.

Do đó, trường kiến nghị Bộ Giao thông vận tải không nên thu phí BTĐB đối với xe tập lái vì xe này chỉ là phương tiện để giảng dạy.

Ông Nguyễn Hoàng Long – giám đốc Trung tâm sát hạch Hoàng Gia (huyện Bình Chánh) – cho rằng để giảm gánh nặng cho người học lái ôtô, Bộ Giao thông vận tải nên miễn, giảm phí BTĐB đối với xe tập lái và miễn nộp phí BTĐB đối với xe thi sát hạch (có gắn thiết bị điện tử) do các xe này chỉ hoạt động trong trung tâm sát hạch, không lăn bánh trên đường.

Các trường cho biết sẽ tiếp tục kiến nghị Sở Giao thông vận tải TP đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét miễn giảm phí đối với các loại xe tập lái, xe thi sát hạch.

Ông Lê Đức Thành cũng kiến nghị sau khi thu phí BTĐB, cơ quan nhà nước cần phải đầu tư tốt chất lượng đường sá để các doanh nghiệp đỡ bớt khoản phí… sửa xe. Ông Thành giải thích do quốc lộ 14 và quốc lộ 20 rất xấu nên mỗi năm các doanh nghiệp phải bỏ ra một số tiền lớn để sửa chữa xe do mặt đường xấu gây ra, trong khi phí BTĐB vẫn phải đóng.

NGỌC ẨN – MẬU TRƯỜNG

Luật tố tụng hành chính 2012

LUẬT

Tố tụng hành chính

 

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;

Quốc hội ban hành Luật Tố tụng hành chính.

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hành chính; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan; trình tự, thủ tục khởi kiện, giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.

Điều 2. Hiệu lực của Luật Tố tụng hành chính

1. Luật Tố tụng hành chính được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng hành chính trên toàn lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam.

2. Luật Tố tụng hành chính được áp dụng đối với hoạt động tố tụng hành chính do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNamtiến hành ở nước ngoài.

3. Luật Tố tụng hành chính được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế thuộc đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì nội dung vụ án hành chính có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.

2. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là văn bản thể hiện dưới hình thức quyết định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình.

4. Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là những quyết định, hành vi quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó.

5. Đương sự bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

6. Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri.

7. Người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, lập danh sách cử tri bị khởi kiện.

8. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Toà án chấp nhận hoặc được Toà án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

9. Cơ quan, tổ chức bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân.

Điều 4. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hành chính

Mọi hoạt động tố tụng hành chính của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Luật này.

Điều 5. Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này.

Điều 6. Giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính

Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Trường hợp trong vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chưa có điều kiện để chứng minh thì Toà án có thể tách yêu cầu bồi thường thiệt hại để giải quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

Điều 7. Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án hành chính. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi kiện của người khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình theo quy định của Luật này.

Điều 8. Cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính

1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

2. Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Luật này quy định.

Điều 9. Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án, Viện kiểm sát; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.

Điều 10. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính

1. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp.

2. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.

3. Các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

Điu 11. Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

1. Đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2. Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Điều 12. Đối thoại trong tố tụng hành chính

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án.

Điều 13. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án hành chính

Việc xét xử vụ án hành chính có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Luật này. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Điều 14. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Khi xét xử vụ án hành chính, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp, cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.

Điều 15. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính

1. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

2. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

3. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc; giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.

4. Người tiến hành tố tụng hành chính có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì cơ quan có người tiến hành tố tụng đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

download văn bản tại đây