Công ty Luật Hưng Nguyên – Xử án kinh tế lúng túng vì thiếu hướng dẫn

Tại hội nghị chuyên đề về án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế do VKSND TP.HCM vừa tổ chức.

 Đại diện các cơ quan tố tụng cho biết không chỉ lúng túng trong việc định tội, họ còn khó xác định khung hình phạt vì thiếu hướng dẫn.Theo VKSND TP.HCM, Chương XVI BLHS có 35 điều luật về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, hầu hết đều quy định về định lượng hay hậu quả làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt. Chẳng hạn các tình tiết “số lượng lớn”, “rất lớn”, “đặc biệt lớn”; “thu lợi bất chính lớn”, “rất lớn”, “đặc biệt lớn”; “gây hậu quả nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng”…Khó định tộiTuy nhiên, đến nay các ngành tư pháp trung ương lại chưa có văn bản hướng dẫn hoặc có văn bản hướng dẫn nhưng chưa cụ thể. Vì vậy, các cơ quan tố tụng rất lúng túng trong việc định tội.Đại diện VKSND TP dẫn chứng về vụ Mã Vĩ Hùng và đồng phạm sản xuất, buôn bán hơn 1.000 đĩa phim có nội dung cấm nên bị truy tố về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm và truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy. Tòa trả hồ sơ, yêu cầu xác định rõ yếu tố định tội. Cơ quan điều tra, VKS gặp khó vì chưa có hướng dẫn bao nhiêu đĩa phim là “số lượng lớn”.Ông Cao Thành Ngưng (Phó Viện trưởng VKSND quận Tân Bình) đưa thêm dẫn chứng: Trần Nữ Hồng Nhung thuê người làm giả 40 vé tàu hỏa rồi đem bán, thu lợi bất chính 42 triệu đồng. Liên ngành hình sự quận Tân Bình đã bàn bạc, thống nhất xử lý Nhung và đồng phạm về tội làm vé giả (Điều 164 BLHS). Vấn đề là chưa có hướng dẫn tình tiết định tội “số lượng lớn” là bao nhiêu vé tàu giả nên VKSND quận Tân Bình phải xin ý kiến cấp TP. Sau đó, liên ngành hình sự TP lại yêu cầu cấp quận làm rõ thêm ý thức chiếm đoạt của Nhung để định tội xâm phạm sở hữu. Cuối cùng, VKSND quận Tân Bình đã truy tố Nhung về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS).Theo ông Lý Thế Sơn (đại diện Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM), cơ quan điều tra cũng đang gặp vướng mắc khi xác định thế nào là tình tiết định tội “quy mô thương mại” trong tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171 BLHS). Cạnh đó, các quy định pháp luật hình sự hiện hành chưa làm rõ khác biệt giữa hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp hành vi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhưng các cơ quan tố tụng lại xử lý về tội sản xuất, buôn bán hàng giả và ngược lại.Bổ sung, đại diện VKSND quận Bình Thạnh cho biết tội lừa dối khách hàng (Điều 162 BLHS) có cấu thành tội phạm giống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS), dẫn tới việc cơ quan tố tụng khó phân biệt khi giải quyết án…Rối định khungKhông chỉ khiến cơ quan tố tụng lúng túng trong việc định tội, việc thiếu hướng dẫn còn khiến cơ quan tố tụng khó xác định khung hình phạt.Chẳng hạn vụ Phù Thị Thu Nguyệt – giám đốc một công ty nhập khẩu rác thải là 140 tấn nhựa phế liệu nhưng khai báo hải quan là sắt phế liệu trị giá 30.800 USD nhằm trốn thuế nhập khẩu 10%. Do không có hướng dẫn thế nào là “số lượng lớn” nên VKS chỉ có thể truy tố Nguyệt về tội buôn lậu theo điểm a khoản 3 Điều 153 BLHS (trường hợp vật phạm pháp có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới 1 tỉ đồng).Ngoài ra, nhiều vụ án kinh tế còn vướng khi xác định hậu quả, dẫn đến chuyện giữa tòa và VKS có quan điểm không thống nhất. Cụ thể như vụ Võ Anh Bằng, giám đốc Công ty TNHH – TM – DV Quý Thành, bán tám hóa đơn GTGT cho Nguyễn Văn Huệ, giám đốc Công ty TNHH Thành Huệ, ghi nội dung doanh số giả gần 333 triệu đồng, thuế GTGT hơn 16,6 triệu đồng, thu lợi bất chính gần 6,7 triệu đồng. Huệ lại bán tám hóa đơn GTGT cho một số đơn vị khác với doanh số giả hơn 7 tỉ đồng, thuế GTGT 350 triệu đồng, thu lợi bất chính hơn 134 triệu đồng.Sau đó, VKSND TP truy tố Huệ, Bằng về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác theo khoản 1 và khoản 3 Điều 181 BLHS. Tuy nhiên, TAND TP lại xét xử Huệ theo khoản 2, Bằng theo khoản 1 Điều 181 BLHS…

Phân biệt nhiều tội khácTheo các đại biểu, cũng cần phân biệt rõ hai tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước (Điều 164a BLHS) và tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác (Điều 181 BLHS). Bởi thực tế cùng một loại hành vi mua bán hóa đơn GTGT, có vụ xử tội này, có vụ xử tội kia trong khi mức hình phạt giữa hai tội có sự chênh lệch lớn (mức hình phạt cao nhất ở Điều 164a là năm năm tù, ở Điều 181 là 20 năm tù).Tương tự, cần phân biệt rõ giữa hai tội buôn lậu (Điều 153 BLHS) và tội trốn thuế (Điều 161 BLHS) trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa bởi có những điểm giống nhau về hành vi không khai báo, khai báo gian dối, không đúng chủng loại, số lượng hàng khi làm thủ tục hải quan để trốn thuế. Việc cùng một hành vi nhưng khi xử tội này, lúc xử tội kia trong khi khung hình phạt giữa hai tội chênh lệch rất lớn đã tạo sự bất công (hình phạt cao nhất ở Điều 153 là tù chung thân, còn ở Điều 161 chỉ có bảy năm tù).Sớm hướng dẫnTrong thời gian chờ BLHS được sửa đổi, bổ sung, liên ngành tư pháp trung ương cần sớm ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng thống nhất đối với các tình tiết định tội, định khung hình phạt trong nhóm tội về kinh tế. Đây là việc cần thiết để tháo gỡ khó khăn cho các cơ quan tố tụng.Ông NGUYỄN THẾ THÀNH, Kiểm sát viên cao cấp Viện Phúc thẩm III VKSND Tối cao

HOÀNG YẾN

Bao giờ án hành chính hết “khó xử”, “xử khó”?

Lâu nay người ta gọi vụ án hành chính là vụ “dân kiện quan”, hay “con kiến kiện củ khoai” để nói về sự chênh lệch vị thế xã hội giữa người khởi kiện và bên bị kiện, nhằm thể hiện tính chất đặc biệt của loại án này.

Người khởi kiện đa phần được xem là những người dân yếu thế, “thấp cổ bé họng”. Trong khi đối tượng bị kiện là người nắm giữ quyền lực công, là một cơ quan nhà nước hoặc đại diện cho cơ quan nhà nước có uy thế, vị thế và có tầm ảnh hưởng nhất định  trong mắt mọi người, kể cả… quan tòa.
Chính tính chất đặc thù đó của vụ án hành chính đã chi phối ít nhiều đến thái độ tâm lý của những người có liên quan trong vụ án, người khởi kiện dễ có cảm giác của bên yếu thế; thậm chí thẩm phán trong nhiều trường hợp, thiếu khách quan, minh bạch khi xét xử. Nói án hành chính là loại án mà tòa “khó xử” và “xử khó” là vậy.
Nhìn nhận một cách khách quan thì bên bị kiện là cơ quan hành chính luôn có một bộ máy và đội ngũ công chức, có trình độ chuyên môn, có điều kiện tiếp cận thông tin và pháp luật. Khi bị kiện, cơ quan hành chính luôn có được thông tin cần thiết và cả điều kiện thu thập thông tin bổ sung để bảo vệ quyết định của mình trước tòa án; chưa kể, do có trình độ và bộ máy tư vấn nên bên bị kiện rất hay lách luật một cách tinh vi.
Bên cạnh đó, cơ quan hành chính có ngân sách nhà nước là nguồn lực dồi dào, trong khi người dân thường chỉ có khối tài sản tư của mình. Việc theo đuổi một vụ án hành chính thường phải tốn kém thời gian cũng như chi phí tố tụng nhất định, bởi vậy bao giờ cơ quan hành chính cũng có lợi thế hơn. Thực tế đã có nhiều trường hợp, người dân từ bỏ vụ án và chấp nhận thua cuộc không phải vì đuối lý, mà đơn giản chỉ vì không có thời gian, tiền bạc để đi cho đến cùng.
Xét về mặt chủ quan, hiện vẫn tồn tại tình trạng Thẩm phán nể nang, ngại va chạm với chính quyền, tâm lý lo sợ không được tái bổ nhiệm khiến nhiều Tòa án, Thẩm phán “ngại” ngay từ khâu thụ lý vụ án hành chính, hoặc buộc phải thụ lý thì “kiểu gì cũng phải xử bác đơn” để được “an toàn”. Vụ kiện mới đây nhất của TAND huyện Cẩm Khê là một ví dụ. Mặc dù các chứng cứ, lập luận được nêu tại phiên tòa cho thấy việc Chủ tịch UBND huyện ra quyết định thu hồi đất là hoàn toàn trái pháp luật. Tuy nhiên, Tòa đã bác đơn của ông Đặng Văn Thông yêu cầu hủy quyết định này, bất chấp sự bất bình của người dân tham dự.
Dường như với cơ chế như hiện nay, bổ nhiệm thẩm phán có một quy trình bắt buộc là phải xin ý kiến cấp ủy, mà cấp ủy thì bao giờ cũng có ông phó bí thư là Chủ tịch UBND- người có quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị kiện – không ít thẩm phán “khó xử” là vì lẽ đó.
Rõ ràng, mô hình cơ quan xét xử theo đơn vị hành chính lãnh thổ như hiện nay và những mối quan hệ phụ thuộc về tổ chức, nhân sự giữa tòa án và chính quyền địa phương đã ảnh hưởng không nhỏ đến tính độc lập trong xét xử của tòa án, đặc biệt khi bên bị kiện là các cơ quan trong bộ máy hành chính ở địa phương.
Trước thực tế trên, nhiều chuyên gia pháp lý cho rằng, cần xúc tiến thành lập mô hình Tòa khu vực để bảo đảm sự độc lập của tòa án hành chính đối với bị đơn về mọi phương diện, giúp người dân tiếp cận với công lý hành chính một cách hiệu quả nhất.
Công Tâm