Thủ tướng phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vừa phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020, trong đó tập trung tái cơ cấu đầu tư công, các tổ chức tín dụng, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

Mục tiêu của Đề án nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo lập hệ thống đòn bẩy khuyến khích hợp lý, ổn định và dài hạn, nhất là ưu đãi về thuế và các biện pháp khuyến khích đầu tư khác, thúc đẩy phân bố và sử dụng nguồn lực xã hội chủ yếu theo cơ chế thị trường vào các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, nâng cao năng suất lao động, năng suất các yếu tố tổng hợp và năng lực cạnh tranh.

Bên cạnh đó, hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý trên cơ sở cải thiện, nâng cấp trình độ phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế; phát triển các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, tạo ra giá trị gia tăng cao từng bước thay thế các ngành công nghệ thấp, giá trị gia tăng thấp để trở thành các ngành kinh tế chủ lực.

Theo đó, về tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, sẽ huy động hợp lý các nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm tổng đầu tư xã hội khoảng 30 – 35% GDP, duy trì ở mức hợp lý các cân đối lớn của nền kinh tế như: tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, ngân sách nhà nước, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, nợ công và nợ nước ngoài quốc gia… Duy trì tỷ trọng đầu tư nhà nước hợp lý, khoảng 35 – 40% tổng đầu tư xã hội; dành khoảng 20 – 25% tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển.

Về tái cơ cấu hệ thống tài chính – ngân hàng, trọng tâm là các tổ chức tín dụng, trong giai đoạn 2013 – 2015, sẽ tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính của các tổ chức tín dụng… Cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sử hữu, quy mô và loại hình…

Thủ tướng yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm khẩn trương xây dựng và triển khai ngay trong nửa đầu năm 2013 Chương trình hành động tái cơ cấu theo lĩnh vực, ngành hoặc vùng lãnh thổ thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước được giao.

Theo Chinhphu.vn

Cước vận tải nhấp nhổm tăng

Các doanh nghiệp vận tải, taxi, xe đò, xe buýt và các trường dạy lái xe, trung tâm sát hạch đang tính toán đến việc tăng giá cước vận tải, tăng phí học lái xe sau khi cơ quan chức năng thu phí bảo trì đường bộ (BTĐB).

Theo các doanh nghiệp, nếu không tăng giá thì không còn lợi nhuận.

Sau tết sẽ tăng cước vận tải

Theo ông Nguyễn Văn Dũng – chủ nhiệm Hợp tác xã vận tải và dịch vụ du lịch Sài Gòn (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), mức thu phí BTĐB đã trở thành gánh nặng cho các xã viên hợp tác xã với 140 xe đò của đơn vị đang hoạt động ở bến xe miền Đông phải đóng 672 triệu đồng/năm phí BTĐB.

Trong khi Bộ Giao thông vận tải đã cho giải thể 17 trạm thu phí trên các tuyến quốc lộ, nhưng thực tế tại TP.HCM (hiện có sáu trạm thu phí) không có trạm thu phí nào giải thể. Như vậy, ôtô hoạt động ở TP.HCM vẫn phải chịu phí chồng phí: vừa nộp phí cho trạm thu phí vừa nộp phí BTĐB. “Dự kiến sau Tết Nguyên đán 2013 hợp tác xã sẽ tăng giá vé xe đò” – ông Dũng nhấn mạnh.

Đề nghị không thu phí đối với xe buýtTheo ông Phùng Đăng Hải – tổng giám đốc Liên hiệp hợp tác xã vận tải TP.HCM, Bộ Giao thông vận tải nên xem xét không thu phí BTĐB đối với xe buýt. Trước hết là góp phần cùng TP giảm ngân sách TP trợ giá cho xe buýt và để không tăng giá vé xe buýt. Hơn nữa, hiện nay toàn bộ xe buýt đã chịu chi phí khi đi qua các trạm thu phí ở TP.HCM. Trong khi đó, ông Bùi Văn Quản – chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM – khẳng định tiếp tục kiến nghị cấp thẩm quyền không thu phí đối với rơmooc và nên cho thu phí BTĐB từng tháng vì tháng nào doanh nghiệp duy tu, sửa chữa xe sẽ không nộp phí.

Tương tự, ông Lê Đức Thành, giám đốc Công ty Thành Bưởi, cho biết doanh nghiệp hiện phải chịu rất nhiều loại phí khác nhau, nay thêm phí BTĐB nên càng khó khăn hơn. Nhà nước ra quy định thì tất nhiên doanh nghiệp phải đóng, nhưng ở góc độ doanh nghiệp kinh doanh vận tải thì không có cách nào khác là phải điều chỉnh nguồn thu, tức là phải tăng giá cước vận tải. “Từ nay đến Tết Nguyên đán 2013, do giá vé được phụ thu thêm 60% nên chưa cần tăng giá cước. Qua Tết Nguyên đán, doanh nghiệp sẽ có lộ trình tăng giá cước cụ thể để thông báo với hành khách và các đơn vị liên quan” – ông Thành cho biết.

Không chỉ xe đò, các hãng taxi cũng đang cân nhắc việc tăng giá cước taxi. Ông Tạ Long Hỷ – giám đốc Hãng taxi Vinasun – ước tính với 4.500 taxi hoạt động mỗi năm phải đóng gần 10 tỉ đồng phí BTĐB khiến doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận.

Ông Nguyễn Đỗ Phương, trợ lý chủ tịch hội đồng quản trị Tập đoàn Mai Linh, nói Hãng taxi Mai Linh có khoảng 12.000 xe đang hoạt động, tính theo mức phí BTĐB thì mỗi năm Mai Linh sẽ chi thêm 20 tỉ đồng. Hãng Vinasun và Mai Linh khẳng định qua Tết Nguyên đán 2013 sẽ cùng các doanh nghiệp taxi khác bàn về lộ trình tăng cước.

Về mức thu phí BTĐB với xe buýt trên 40 chỗ ngồi là 7,1 triệu đồng/xe/năm, ông Phùng Đăng Hải, tổng giám đốc Liên hiệp hợp tác xã vận tải TP.HCM, cho rằng như vậy là quá nặng. Theo ông Hải, nếu ngân sách không trợ giá cho xe buýt về phí BTĐB thì nên xem xét cho các doanh nghiệp vận tải xe buýt được tăng giá vé.

Bởi vì nộp thêm phí BTĐB trong khi giá vé không tăng hoặc không được trợ giá thì xã viên xe buýt sẽ bị lỗ nặng. Ông Nguyễn Văn Triệu, chủ nhiệm Hợp tác xã xe buýt 19-5, xác định hợp tác xã sẽ có buổi làm việc với các xã viên đang quản 420 xe buýt về quyết định có nên kiến nghị tăng giá vé hay không.

Mặc dù chưa tính toán cụ thể sẽ tăng giá cước vận tải hàng hóa nhưng ông Bùi Văn Quản – chủ tịch Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM – cho rằng các doanh nghiệp vận tải sẽ thương lượng với chủ hàng để điều chỉnh giá cước vận tải ở mức hợp lý.

Trong khi đó theo một số trường đào tạo lái ôtô ở TP.HCM, Bộ Giao thông vận tải quy định bắt đầu từ năm 2013 các trường phải tăng thời lượng đào tạo lái ôtô số tự động và nay lại có thêm việc nộp phí BTĐB khiến học phí đào tạo lái xe không đủ bù đắp chi phí. Ông Nguyễn Trọng Điệp – phó hiệu trưởng Trường cao đẳng Giao thông vận tải TP.HCM – thông tin sắp tới nhà trường sẽ bàn bạc điều chỉnh mức học phí lái xe vào thời điểm phù hợp.

Kiến nghị… sửa đường

Theo ông Vũ Đức Thiệu – hiệu trưởng Trường cao đẳng nghề Giao thông vận tải trung ương 3 (Q.Tân Phú), nếu lấy lý do nộp phí BTĐB để tăng học phí đào tạo lái xe là điều bất cập vì học phí tăng sẽ gây khó khăn cho người học lái.

Do đó, trường kiến nghị Bộ Giao thông vận tải không nên thu phí BTĐB đối với xe tập lái vì xe này chỉ là phương tiện để giảng dạy.

Ông Nguyễn Hoàng Long – giám đốc Trung tâm sát hạch Hoàng Gia (huyện Bình Chánh) – cho rằng để giảm gánh nặng cho người học lái ôtô, Bộ Giao thông vận tải nên miễn, giảm phí BTĐB đối với xe tập lái và miễn nộp phí BTĐB đối với xe thi sát hạch (có gắn thiết bị điện tử) do các xe này chỉ hoạt động trong trung tâm sát hạch, không lăn bánh trên đường.

Các trường cho biết sẽ tiếp tục kiến nghị Sở Giao thông vận tải TP đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét miễn giảm phí đối với các loại xe tập lái, xe thi sát hạch.

Ông Lê Đức Thành cũng kiến nghị sau khi thu phí BTĐB, cơ quan nhà nước cần phải đầu tư tốt chất lượng đường sá để các doanh nghiệp đỡ bớt khoản phí… sửa xe. Ông Thành giải thích do quốc lộ 14 và quốc lộ 20 rất xấu nên mỗi năm các doanh nghiệp phải bỏ ra một số tiền lớn để sửa chữa xe do mặt đường xấu gây ra, trong khi phí BTĐB vẫn phải đóng.

NGỌC ẨN – MẬU TRƯỜNG

Các “ông lớn” bi quan về kinh tế năm tới

Tại báo cáo cáo nghiên cứu với tiêu đề “Kinh tế Việt Nam 2013 qua góc nhìn của doanh nghiệp hàng đầu” của Vietnamreport được công bố ngày 4/12 cho thấy có tới 55% số doanh nghiệp cho rằng nền kinh tế sẽ không cải thiện nhiều trong năm 2013.Nghiên cứu của báo cáo được thực hiện dựa trên kết quả điều tra của gần 200 đại diện các doanh nghiệp nằm trong bảng V1000 (Top 1000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập lớn nhất), VNR500 (Top 500 doanh nghiệp lớn nhất) và FAST500 (Top 500 doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất) vừa được công bố trong năm 2012.Theo đó, có tới 50% lãnh đạo các doanh nghiệp nộp thuế thu nhập lớn nhất nhận định rằng tình hình hoạt động của doanh nghiệp của họ xấu hơn so với năm 2011. Trong khi đó, 100% đại diện của ngành ngân hàng tài chính chỉ ra rằng kết quả sản xuất kinh doanh năm 2012 không bằng năm 2011.Dự báo về triển vọng năm 2013, có tới 55% số doanh nghiệp hàng đầu cho rằng nền kinh tế sẽ không cải thiện nhiều trong năm 2013. Số doanh nghiệp cho rằng tình hình kinh doanh trong năm 2013 sẽ xấu hơn năm 2012, nhiều hơn số doanh nghiệp tin vào điều ngược lại.Đa số các chủ doanh nghiệp cho biết đã cắt giảm chi phí đóng góp tới lợi nhuận của doanh nghiệp trong năm 2012. Điểm sáng duy nhất được tìm thấy là ngành dệt may. Đa số đại diện ngành dệt may cho biết lợi nhuận năm 2012 của họ đến từ mở rộng sản xuất kinh doanh chứ không phải cắt giảm chi phí.Ngoài sự bi quan về triển vọng của nền kinh tế, các doanh nghiệp còn chỉ ra những thách thức chính mà đa số các doanh nghiệp sẽ gặp phải trong năm 2013.Đó là bất ổn về môi trường kinh doanh, sự suy giảm về cầu tiêu dùng trên thị trường giá và nguyên vật liệu tăng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng bày tỏ mối lo ngại về sự biến động trong chính sách quản lý cũng như sự khó khăn trong việc huy động vốn trong năm 2013.Tuy đánh giá bi quan về triển vọng của nền kinh tế nói chung và các thách thức mà doanh nghiệp sẽ gặp phải nói riêng trong năm 2013, song phần lớn các doanh nghiệp tin tưởng vào cam kết của chính phủ về kiềm chế lạm phát, cũng như tin tưởng rằng ngân hàng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp nhiều hơn trong năm 2013.Có tới 76% các doanh nghiệp dự kiến sẽ vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh trong năm 2013. So với con số 60% doanh nghiệp cho rằng các ngân hàng chưa giúp đỡ các doanh nghiệp (thu được trong cuộc điều tra CEO thực hiện vào tháng 8 năm 2012, thì đây là một sự cải thiện đáng kể về niềm tin của doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng.Tuy nhiên, cũng có tới 50% số doanh nghiệp dự kiến nguồn huy động vốn chính trong năm 2013 của doanh nghiệp sẽ là nguồn vốn tự có của doanh nghiệp.Bên cạnh đó, tái cấu trúc doanh nghiệp là tất yếu. Để có thể tồn tại và phát triển, đa số các doanh nghiệp sẽ phải tiến hành tái cấu trúc, tự nguyện hay không. Hơn 90% các nhà quản lý doanh nghiệp nhận định rằng tái cấu trúc đã đang và sẽ diễn ra mạnh mẽ tại các doanh nghiệp Việt Nam.Công ty Luật Hưng Nguyên (sưu tầm)

Hơn 40.000 tỷ đồng “chết” trong núi hàng tồn nhà đất

“Thị trường bất động sản đang ở giai đoạn khó khăn nhất và còn tiếp tục khó. Chúng tôi đã chỉ đạo quyết liệt việc giải cứu nhưng cũng không thể khẳng định có thể tháo gỡ khó khăn tuyệt đối” – Bộ trưởng Xây dựng Trịnh Đình Dũng thẳng thắn trao đổi.

Chất vấn về “khối nợ” bất động sản hiện tại, Đại biểu Lê Thị Nga (Thái Nguyên) đặt vấn đề, quản lý thị trường thời gian qua còn kém dẫn đến tình trạng nhà nhà, người người đầu tư bất động sản. Các tập đoàn kinh tế nhà nước chưa làm xong nhiệm vụ của trong lĩnh vực chủ chốt mình cũng lao theo đầu tư bất động sản, làm vống giá trị nhà đất.

“Vậy nên có nhà đầu tư phát biểu, vì nhà nước quản lý kém nên tôi giàu lên nhanh quá” – bà Nga dẫn chuyện, yêu cầu Bộ trưởng Xây dựng nói rõ về nguyên nhân của tình trạng này cũng như trách nhiệm quản lý của Bộ.

Đại biểu Châu Thị Thu Nga (Hà Nội) “bồi” thêm vấn đề tồn kho quá lớn của thị trường, yêu cầu người đứng đầu ngành xây dựng giải trình kế hoạch giải cứu, phá băng cho thị trường, khôi phục niềm tin nhà đầu tư.

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng thừa nhận, tồn kho bất động sản hiện tại “đúng là rất lớn” và không chỉ tồn kho theo các số liệu báo cáo mà còn “đọng” cả những sản phẩm dở dang như căn hộ đã có người mua đóng góp tiền nhưng chưa xong, những dự án không có đủ tiền để tiếp tục thực hiện. Tồn kho ở phần này theo ông Dũng cũng lớn khó lường. Ngoài ra còn lượng hàng tồn kho ở nền đất hạ tầng các khu công nghiệp.

Ông Dũng lý giải thị trường trầm lắng, đóng băng là do quá trình phát triển các dự án tự phát, mang tính chất phong trào, thiếu tuân thủ quy hoạch, kế hoạch. Số dự án quá nhiều, vượt rất xa so với nhu cầu thực của thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng. Cơ cấu bất động sản cũng bất cập, vừa thừa vừa thiếu – thừa nhà cao cấp, trung bình nhưng thiếu nhà phục vụ người dân có thu nhập thấp.

Vốn cho thị trường chủ yếu dựa vào vốn vay tín dụng và một phần vốn đóng góp của người dân mua nhà. Chủ đầu tư lại hầu hết chỉ có khoản vốn chủ sở hữu rất thấp nên khi tín dụng cho bất động sản bị thắt chặt, lãi suất tăng cao, các dự án lập tức rơi vào tình trạng đóng băng, không thực hiện được. Thị trường thiếu những nguồn vốn bền vững dài hơi như quỹ phát triển nhà ở, quỹ tín dụng nhân dân…

Bộ trưởng Xây dựng cho biết đang tập trung rà soát toàn bộ các dự án bất động sản, phân loại để dừng ngay những dự án chưa giải phóng mặt bằng, giãn tiến độ các dự án đang thực hiện, chuyển mục đích đầu tư để xây nhà ở xã hội, cơ cấu lại các căn hộ cho phù hợp với người thu nhập thấp đối với dự án đã xong hạ tầng… Các dự án đầu tư thương mại được khuyến khích chuyển sang các mục đích này với chính sách hỗ trợ tiền sử dụng đất, thuế.

Mặt khác, Bộ Xây dựng cũng đề nghị ngành ngân hàng tiếp tục cho vay, giảm thuế VAT với người mua nhà để ở lần đầu, mua nhà ở xã hội… để kích cầu thị trường.

Đại biểu Nguyễn Thành Tâm (Tây Ninh) hỏi sang vấn đề khả năng kiểm soát sự tác động của cá nhóm lợi ích dẫn đến tình trạng bong bóng bất động sản, ảnh hưởng đén quyền lợi  chính đáng của những người có nhu cầu mua nhà để ở. Ông Tâm nêu nghịch lý, nhà ở xã hội trước đây cũng “toàn người đi ô tô đến mua”. Vấn đề khi giải cứu thị trường, theo đại biểu không phải là vì lợi ích của nhà đầu tư, thậm chí phải đề cập đến trách nhiệm của họ trong việc này.

Đại biểu Nguyễn Anh Sơn (Nam Định) cho rằng, cần nhìn thẳng thực tế thị trường bất động sản đang ở ngưỡng nguy hiểm, nếu đổ vỡ sẽ để lại hệ lụy to lớn. Ông Sơn muốn biết kịch bản đối phó khi tình huống này xảy ra.

Để lâu nợ xấu càng tăng

Đại biểu Phùng Văn Hùng (Cao Bằng) tỏ ý nghi ngờ về tính khả thi của những giải pháp đưa ra. “Khối lượng căn hộ và biệt thự tồn đọng cực lớn riêng tại 2 thành phố Hà Nội, TPHCM là mối quan ngại lớn, được ví như “cục máu đông” làm ách tắc nền kinh tế, nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng nợ xấu. Dư nợ bất động sản hiện đã hơn 1 triệu tỷ đồng, bằng 1/2 tổng dư nợ tín dụng. Số tồn đọng do cung vượt cầu quá lớn, đều là sản phẩm cao cấp, dù giá nhà có hạ 30-40% cũng không ai mua, không mấy người có khả năng mua. Theo kế hoạch của Bộ trưởng, một vài năm tới có xử lý, giải cứu được thị trường?” – ông Hùng tung một câu hỏi “hóc”.

Về yêu cầu cung cấp số liệu cụ thể của đại biểu, Bộ trưởng Xây dựng cho biết, thống kê 44 tỉnh thành (đều những tỉnh có nhiều dự án bất động sản), tính đến 30/8/2012, cả nước còn “tồn” hơn 16.000 căn hộ chung cư (Hà Nội 2.300 căn, TPHCM 10.108 căn), nhà thấp tầng 5000 căn (Hà Nội hơn 3000 căn, TPHCM 1.800 căn), đất nền 1,6 triệu m2… Tổng giá trị tồn kho ước tính 40.750 tỷ đồng.

Ông Dũng cũng thanh minh, thị trường bất động sản ở Việt Nam còn non trẻ, kinh nghiệm nhà quản lý, cả nhà nước và nhà kinh doanh đều hạn chế trong khi ngành nàylại  liên quan đến nhiều ngành quản lý, cả ở TƯ và địa phương. Vì vậy, để giải cứu thị trường đòi hỏi hệ thống giải pháp đồng bộ hoàn chỉnh. Đặc biệt là vai trò các địa phương vì đây là đơn vị trực tiếp quản lý dự án. Có điều chỉnh dự án, cơ cấu lại căn hộ, dự án, thời gian nhanh hay chậm… phụ thuộc hoàn toàn vào địa phương và cơ quan chuyên môn tham mưu và quyết tâm của doanh nghiệp.

“Về trách nhiệm của mình Bộ chúng tôi đã chỉ đạo làm quyết liệt. Hi vọng các địa phương cùng đồng lòng vào cuộc. Nhưng cũng không thể khẳng định được là có thể tháo gỡ khó khăn tuyệt đối vì phải cân đối cung cầu. Cung thì có nhưng cầu phải có tiền. Nền kinh tế nước ta còn khó khăn, còn nghèo nên phải tháo gỡ từng bước” – Bộ trưởng Xây dựng phân trần.

Ông Dũng cũng mong được chia sẻ vì thị trường đang ở giai đoạn khó khăn nhất và theo dự báo, còn tiếp tục khó. Cần phải tháo gỡ từng bước vì càng để lâu nợ xấu càng tăng thêm. Nhưng Ông Dũng vẫn quả quyết “chắc chắn thị trường sẽ ấm dần lên theo cầu của nền kinh tế”.

P.Thảo

Luật tố tụng hành chính 2012

LUẬT

Tố tụng hành chính

 

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;

Quốc hội ban hành Luật Tố tụng hành chính.

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hành chính; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan; trình tự, thủ tục khởi kiện, giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.

Điều 2. Hiệu lực của Luật Tố tụng hành chính

1. Luật Tố tụng hành chính được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng hành chính trên toàn lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam.

2. Luật Tố tụng hành chính được áp dụng đối với hoạt động tố tụng hành chính do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNamtiến hành ở nước ngoài.

3. Luật Tố tụng hành chính được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế thuộc đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì nội dung vụ án hành chính có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.

2. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là văn bản thể hiện dưới hình thức quyết định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình.

4. Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là những quyết định, hành vi quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó.

5. Đương sự bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

6. Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri.

7. Người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, lập danh sách cử tri bị khởi kiện.

8. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Toà án chấp nhận hoặc được Toà án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

9. Cơ quan, tổ chức bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân.

Điều 4. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hành chính

Mọi hoạt động tố tụng hành chính của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Luật này.

Điều 5. Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này.

Điều 6. Giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính

Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Trường hợp trong vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chưa có điều kiện để chứng minh thì Toà án có thể tách yêu cầu bồi thường thiệt hại để giải quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

Điều 7. Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án hành chính. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi kiện của người khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình theo quy định của Luật này.

Điều 8. Cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính

1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

2. Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Luật này quy định.

Điều 9. Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án, Viện kiểm sát; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.

Điều 10. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính

1. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp.

2. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.

3. Các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

Điu 11. Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

1. Đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2. Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Điều 12. Đối thoại trong tố tụng hành chính

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án.

Điều 13. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án hành chính

Việc xét xử vụ án hành chính có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Luật này. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Điều 14. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Khi xét xử vụ án hành chính, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp, cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.

Điều 15. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính

1. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

2. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

3. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc; giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.

4. Người tiến hành tố tụng hành chính có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì cơ quan có người tiến hành tố tụng đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

download văn bản tại đây