Luật sư tư vấn đầu tư – Dầu khí, viễn thông, ngân hàng… là những lĩnh vực đang được các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 71/2013/NĐ-CP về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Theo đó, kể từ ngày 1/9/2013, Nhà nước chỉ đầu tư dự án, công trình quan trọng tại doanh nghiệp trong trường hợp dự án có tổng vốn đầu tư từ 35.000 tỷ đồng trở lên, trong đó vốn nhà nước từ 11.000 tỷ đồng trở lên.
PVN là một trong những doanh nghiệp đang đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài để khai thác dầu khí
Đối với dự án, công trình trọng điểm của quốc gia đầu tư ra nước ngoài có tổng vốn đầu tư ra nước ngoài từ 20.000 tỷ đồng trở lên, trong đó vốn nhà nước đầu tư ra nước ngoài từ 7.000 tỷ đồng trở lên; dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định; dự án đặc biệt quan trọng khác do Thủ tướng quyết định mới được Nhà nước đầu tư vốn cũng được Nhà nước đầu tư vốn.
Nhà nước cũng đầu tư vốn đối với dự án, công trình có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, gồm nhà máy điện hạt nhân; dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học từ 50 ha trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50 ha trở lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng lấn biển, bảo vệ môi trường từ 500 ha trở lên; rừng sản xuất từ 1.000 hécta ha trở lên.
Dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước 2 – 3 vụ/năm với quy mô từ 500 ha trở lên; dự án, công trình phải di dân tái định cư từ 20.000 người trở lên ở miền núi, từ 50.000 người trở lên ở các vùng khác; dự án, công trình đầu tư tại địa bàn có di tích quốc gia có giá trị đặc biệt quan trọng về lịch sử, văn hóa; danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia cũng thuộc loại được Nhà nước đầu tư vốn.
Ngoài ra, Nhà nước cũng đầu tư vốn vào dự án, công trình đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh; và dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt.
Cũng kể từ ngày 1/9/2013, Nhà nước chỉ đầu tư vốn để thành lập mới doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ đối với những ngành, lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội, trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng; ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi đầu tư lớn; địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Việc bổ sung vốn chỉ thực hiện đối với doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn theo tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ nhưng chưa được Nhà nước đầu tư đủ vốn điều lệ.
Nghị định 71/2013/NĐ-CP cũng quy định, việc đầu tư bổ sung vốn nhà nước để duy trì hoặc tăng tỷ lệ vốn nhà nước đang tham gia tại doanh nghiệp gồm, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng; doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế ngành, lãnh thổ và thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong từng thời kỳ.
Việc mua lại một phần vốn hoặc toàn bộ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong từng thời kỳ.
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Bộ luật này quy định về dân sự.
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
CHƯƠNG I
NHIỆM VỤ VÀ HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
Điều 1. Nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự
Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).
Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Điều 2. Hiệu lực của Bộ luật dân sự
1. Bộ luật dân sự được áp dụng đối với quan hệ dân sự được xác lập từ ngày Bộ luật này có hiệu lực, trừ trường hợp được Bộ luật này hoặc nghị quyết của Quốc hội có quy định khác.
2. Bộ luật dân sự được áp dụng trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Bộ luật dân sự được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Điều 3. Áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật
Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này.
CHƯƠNG II
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Điều 4. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận
Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào.
Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng.
Điều 5. Nguyên tắc bình đẳng
Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau.
Điều 6. Nguyên tắc thiện chí, trung thực
Trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trung thực trong việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào.
Điều 7. Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự
Các bên phải nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình và tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, nếu không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 8. Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp
Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Đồng bào các dân tộc thiểu số được tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ dân sự để từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình.
Việc giúp đỡ người già, trẻ em, người tàn tật trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự được khuyến khích.
Điều 9. Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự
1. Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
a) Công nhận quyền dân sự của mình;
b) Buộc chấm dứt hành vi vi phạm;
c) Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
d) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
đ) Buộc bồi thường thiệt hại.
Điều 10. Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác
Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Điều 11. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật
Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải tuân theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật.
Điều 12. Nguyên tắc hoà giải
Trong quan hệ dân sự, việc hoà giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích.
Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự.
Điều 13. Căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự
Quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập từ các căn cứ sau đây:
1. Giao dịch dân sự hợp pháp;
2. Quyết định của Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác;
3. Sự kiện pháp lý do pháp luật quy định;
4. Sáng tạo giá trị tinh thần là đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ;
5. Chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật;
6. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
7. Thực hiện công việc không có uỷ quyền;
8. Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật;
Trong phần 1, chúng tôi đã phân tích: “Một số bất cập của Luật phá sản năm 2004”, trong nội dung của bài viết này, chúng tôi xin tiếp tục phân tích những bất cập của Luật phá sản doanh nghiệp 2004 (“LPSDN”) ở những nội dung sau:
1. Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Điều 23 LPSDN có quy định: “Trường hợp người nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án phải thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết”.
Theo quy định này, trường hợp người nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, có thể là các chủ nợ, thì trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án phải thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết.
Trên thực tế, việc quản lý và kiểm tra về địa điểm hoạt động kinh doanh ở Việt Nam còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp đăng ký hoạt động được một thời gian, sau đó thì “mất tích”, tức là khi chuyển địa điểm kinh doanh, doanh nghiệp, hợp tác xã cũng không thông báo với cơ quan thuế trực tiếp quản lý được biết. Chính vì vậy, khi có chủ nợ làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó thì Toà án không xác định được trụ sở doanh nghiệp ở đâu. Trong những trường hợp này, vừa rất khó xác định thẩm quyền giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản của Toà án và vừa không đủ điều kiện để Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Có những trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Chủ sở hữu là người nước ngoài, sau khi kinh doanh thua lỗ bỏ về nước, thì Tòa án cũng rất khó để xác định được địa chỉ của Chủ sở hữu ở nước ngoài, để gửi thông báo. Hoặc giả sử, những chủ sở hữu là người nước ngoài có nhận được thông báo của Tòa án thì họ cũng không đến Việt Nam để giải quyết. Thậm chí, có những trường hợp thực tế đã xảy ra, đó là chủ sở hữu là người Nước ngoài, sau khi nhận được thông báo của Tóa án, họ đồng ý đến Việt Nam giải quyết mọi vấn đề liên quan, những với điều kiện là phía Việt Nam phải bảo đảm cho họ xuất cảnh (rời khỏi Việt Nam) bất cứ lúc nào họ muốn.
Đối với những trường hợp như trên, Tòa án thường rất khó để giải quyết, trong khi với sức ép của người lao động và của các chủ nợ đòi hỏi Tòa án phải mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp để bảo đảm quyền và lợi ích của họ. Có nhiều Tòa án đã áp dụng điểm 5 Điều 24 Luật Phá sản để trả lại đơn. Thực ra, đây chỉ là biện pháp tình thế, nhưng việc này gây rất nhiều khó khăn cho các chủ nợ, đặc biệt là Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khi mà diện tích nhà xưởng bị bỏ không, người thuê không sử dụng nhưng không thể thu hồi cho người khác thuê. Công nhân không được trả nợ lương, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn phải thuê người bảo quản trông nom tài sản của doanh nghiệp.
2. Xác định mở hay không mở thủ tục phá sản:
Khoản 1, điều 28, LPSDN quy định: “Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Toà án phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản”.
Theo quy định thì Tòa án chỉ có thời hạn là ba mươi ngày để xác định việc mở thủ tục phá sản hay không. Thực tế, khi hồ sơ đến tay Thẩm Phán thì thời hạn này chỉ còn khoảng hơn hai mươi ngày để xem hồ sơ và ra quyết định. Khoảng thời gian này thường không đủ để Thẩm phán xem xét hồ sơ, triệu tập các phiên họp cần thiết với sự tham gia của chủ doanh nghiệp, các cá nhân và tổ chức khác có liên quan để xem xét những bằng chứng chứng minh doanh nghiệp thật sự lâm vào tình trạng phá sản.
3.Việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản:
Điều 9, LPSDN quy định: “Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản”.
Mục 5.1, chương I của Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Toà án nhân dân tối cao thì quy định như sau: “Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và trong quá trình nghiên cứu hồ sơ việc phá sản, Thẩm phán phải có công văn gửi cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều 9 của LPS yêu cầu họ cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trong công văn phải ghi rõ về yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, tính chất của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản và yêu cầu cử người đại diện cụ thể (họ tên, tuổi, chức vụ, chuyên môn nghiệp vụ) tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản.Sau khi nhận được công văn về việc cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản, nếu thấy người được cử không đạt yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, thì Thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đó cử người khác thay thế”.
Điều 16 của Nghị định 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 quy định: “Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán gửi văn bản đề nghị cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản tới cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan quy định tại Điều 15 của Nghị định này. Trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Thẩm phán, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản”.
Từ các quy định trên, cho thấy có sự mâu thuẫn giữa các văn bản hướng dẫn về việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
Trên thực tế, việc phối hợp giữa Toà án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thường bị chậm trễ do không cử được người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tình trạng này đã dẫn đến việc không kịp thời thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản nên đã tạo ra lỗ hổng pháp lý cho doanh nghiệp tẩu tán tài sản.
4. Vấn đề xử lý tài sản của doanh nghiệp yêu cầu tuyên bố phá sản
Đối với tài sản là quyền sử dụng đất của các doanh nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm, đa số doanh nghiệp được Nhà nước cho thuê đất để xây dựng nhà xưởng, văn phòng làm việc nhưng khi doanh nghiệp tiến hành giải quyết phá sản thường bị Nhà nước ra quyết định thu hồi đất theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật đất đai năm 2003. Vì vậy, khi tiến hành bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp thì chỉ được bán tài sản trên đất, nên số tài sản này thường không bán được dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản và các chủ nợ. Mặt khác, việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản phải qua nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, tài sản để lâu dẫn đến giảm rất nhiều hoặc không còn giá trị sử dụng, trong khi nhu cầu mua có nhưng người mua không mua được.
Về việc thanh lý, thu hồi khoản nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân nợ doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản (“con nợ”) hiện chưa có quy định cụ thể. Do đó, có nhiều trường hợp phía con nợ gây khó khăn không chịu trả, kéo dài thời gian thu hồi nợ của doanh nghiệp. Nhưng tổ thanh lý tài sản cũng không có biện pháp gì khác để tiến hành thu khoản nợ này.
Từ những bất cập của LPSDN nêu trên, thì trong thời gian tới, cần tiếp tục ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Phá sản năm 2004, nhằm hoàn thiện Luật và đưa vào thực tiễn áp dụng./.
ĐẦU TƯ CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM SỐ 59/2005/QH11 NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 2005
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về hoạt động đầu tư.
CHƯƠNG I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trên lãnh thổ ViệtNamvà đầu tư từ ViệtNamra nước ngoài.
2. Tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
3. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
4. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật ViệtNam, bao gồm:
a) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp;
b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã;
c) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật này có hiệu lực;
d) Hộ kinh doanh, cá nhân;
đ) Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
e) Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam .
5. Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
6. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam ; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.
7. Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư.
8. Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định.
9. Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
10. Vốn nhà nước là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước.
11. Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân sở hữu vốn hoặc người thay mặt chủ sở hữu hoặc người vay vốn và trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư.
12. Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
13. Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
14. Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư.
15. Lĩnh vực đầu tư có điều kiện là lĩnh vực chỉ được thực hiện đầu tư với các điều kiện cụ thể do pháp luật quy định.
16. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.
17. Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BOT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
18. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BTO) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
19. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
20. Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
21. Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
22. Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
23. Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Điều 4. Chính sách về đầu tư
1. Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam .
2. Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư.
3. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư.
4. Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
5. Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư.
Điều 5. Áp dụng pháp luật đầu tư, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế
1. Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Hoạt động đầu tư đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó.
3. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó.
4. Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
CHƯƠNG II BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ
Điều 6. Bảo đảm về vốn và tài sản
1. Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.
2. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng.
Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư.
3. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, việc thanh toán hoặc bồi thường tài sản quy định tại khoản 2 Điều này được thực hiện bằng đồng tiền tự do chuyển đổi và được quyền chuyển ra nước ngoài.
Đã có một số cải tiến về thể chế, nhưng môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn bị hạ một bậc và rớt xuống mức thấp nhất 6 năm qua, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới.
công ty Luật
Ngân hàng Thế giới ngày 23/10 công bố báo cáo Môi trường Kinh doanh 2013. Năm nay, Việt Nam tụt hạng một bậc, xuống đứng vị trí 99 trên tổng số 183 nước được xếp hạng. Đây là thứ hạng thấp nhất của Việt Nam kể từ năm 2006.
Trong 10 hạng mục để đánh giá môi trường kinh doanh, Việt Nam chỉ cải thiện được 3 so với năm ngoái là thành lập doanh nghiệp, tiếp cận điện năng và nộp thuế. Một số lĩnh vực khác kém xa thế giới như bảo vệ nhà đầu tư (xếp hạng 169 trên 183 nước), hay Xử lý doanh nghiệp mất khả năng thanh toán (xếp hạng 149).
Mặc dù vậy, Ngân hàng Thế giới đánh giá rằng Việt Nam cũng đã có nhiều tiến bộ, thực hiện tổng cộng 18 cải cách về thể chế hoặc pháp lý ở 8 trên 10 lĩnh vực trong 8 năm qua. Gần đây nhất, Việt Nam đã tạo thuận lợi trong thủ tục thành lập doanh nghiệp bằng việc cho phép doanh nghiệp trong nước sử dụng hóa đơn thuế giá trị gia tăng tự in.
Ngoài ra, nếu như hồi 2009, tính toán của World Bank cho thấy mỗi năm doanh nghiệp Việt tốn hơn 1.000 giờ chỉ riêng cho việc đi nộp thuế thì năm nay con số trên giảm còn hơn 870 giờ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp khác tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương chỉ mất trung bình hơn 200 giờ đồng hồ cho việc đóng thuế mỗi năm, và ở các nước OECD thì con số này là 176 giờ.
“Một trong những ưu tiên hàng đầu của Nhóm Ngân hàng Thế giới là hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam,” bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam khẳng định, “Kết quả báo cáo thể hiện rằng cần nỗ lực nhiều hơn để đưa Việt Nam sánh ngang với các nền kinh tế trong khu vực.”
Tính trên phạm vi toàn cầu, Singapore năm thứ 7 liên tiếp có môi trường pháp lý thuận lợi nhất thế giới cho kinh doanh, đứng thứ hai vẫn là Đặc khu Hành chính Hong Kong. Các quốc gia khác có mặt trong Top 10 là New Zealand, Mỹ, Đan Mạch, Na Uy, Anh, Hàn Quốc, Gruzia, và Australia.
Cũng theo báo cáo, các quốc gia khác trong khu vực Đông Á – Thái Bình Dương có sự cải thiện môi trường kinh doanh mạnh mẽ hơn so với Việt Nam. Trong tám năm qua, Trung Quốc là nền kinh tế có nhiều tiến bộ nhất khu vực về cải cách các quy định kinh doanh tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước.
Báo cáo Môi trường Kinh doanh phân tích các quy định áp dụng cho các doanh nghiệp trong một nền kinh tế trong vòng đời của doanh nghiệp, trong đó có các quy định về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, thương mại quốc tế, nộp thuế và bảo vệ nhà đầu tư. Thứ hạng chung về mức độ thuận lợi kinh doanh được đánh giá dựa trên 10 chỉ số của 185 nền kinh tế. Báo cáo Môi trường Kinh doanh không đánh giá toàn bộ các lĩnh vực của môi trường kinh doanh có ảnh hưởng đến doanh nghiệp và nhà đầu tư. Chẳng hạn, báo cáo không phân tích chất lượng quản trị tài chính, các mặt của sự ổn định kinh tế vĩ mô, trình độ kỹ năng của lực lượng lao động hay sự ổn định của hệ thống tài chính. Các kết quả trong báo cáo đã thúc đẩy quá trình thảo luận về chính sách trên toàn thế giới và tạo điều kiện tăng cường nghiên cứu về ảnh hưởng của các quy định ở cấp doanh nghiệp tới kết quả hoạt động chung của các nền kinh tế. Đây là năm thứ 10 liên tiếp World Bank thực hiện báo cáo này.
Gần một năm sau cuộc tranh luận “nảy lửa” giữa 2 ngành công thương và tài chính, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý để đưa ra một giải pháp toàn diện cho bải toán xăng dầu vẫn là điều mà dư luận phải chờ đợi.
Công ty Luật Hưng Nguyên
Tại hội thảo diễn ra cách đây 12 tháng, dư luận từng đánh giá cao quyết tâm của Bộ trưởng Tài chính khi yêu cầu doanh nghiệp phải chia sẻ gánh nặng giá cả với Nhà nước và người dân, đồng thời cũng tôn trọng quan điểm của đại diện Bộ Công Thương khi cho rằng “không để gãy nguồn cung” là mục tiêu quan trọng. Cuộc đối thoại giữa lãnh đạo các bộ Công Thương, Tài chính và nhóm các doanh nghiệp đầu mối khép lại cùng kỳ vọng về một cơ chế hợp tác – giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý nhằm lành mạnh hóa thị trường xăng dầu, vốn được xem là mạch máu của nền kinh tế.
Sau những cái bắt tay, cơ quan nào cũng gắng “làm tròn trách nhiệm”. Bộ Tài chính điều hành giá, Bộ Công Thương quản lý ngành dọc đối với doanh nghiệp, đảm bảo nguồn cung trong khi Bộ Khoa học & Công nghệ chịu trách nhiệm giám sát về chất lượng xăng dầu… Thế nhưng khi thị trường diễn biến phức tạp, người tiêu dùng cần sự chia sẻ, doanh nghiệp cần một thông điệp để an tâm, thì giải pháp toàn diện vẫn là một ẩn số khó tìm.
Suốt một năm, những thất thường của thị trường năng lượng quốc tế cùng với cơ chế điều hành nói trên đã khiến giá bán lẻ xăng dầu trong nước “nhảy múa” hơn chục lần. Người tiêu dùng chưa kịp dễ thở với 5 lần giảm liên tiếp, thì hơn một tháng trở lại đây, lại chóng mặt với 4 đợt tăng giá liên tiếp. Giá bán lẻ xăng RON 92 hiện nay, 23.650 đồng một lít, đã gần quay về mức kỷ lục 23.800 đồng của ngày 20/4, gần như xóa mọi nỗ lực “bình ổn” trước đó.
Chịu nhiều áp lực nhất trong những lần tăng giá có lẽ là Bộ Tài chính. Tiếng là điều hành “liên Bộ”, cứ mỗi lần điều chỉnh, dù là giai đoạn Nhà nước định trước đây hay trao phần nào quyền tự chủ cho doanh nghiệp hiện nay, thì người “gật đầu” cuối cũng vẫn là ngành tài chính. Áp lực từ dư luận, từ người tiêu dùng, từ doanh nghiệp và cả gánh nặng ngân sách đương nhiên sẽ đè nặng lên cơ quan này.
Cách tiếp cận bài toán xăng dầu của ngành tài chính, dù sao đi nữa, vẫn chỉ nằm ở khía cạnh giá. Giá thế giới leo thang, doanh nghiệp được xác định lỗ, tham khảo ý kiến các cơ quan khác, Bộ sẽ đưa ra phương án xử lý giá theo nguyên tắc “cân đối lợi ích 3 bên: Nhà nước, doanh nghiệp, người tiêu dùng”. Gần đây nhất, vai trò điều tiết của cơ quan quản lý được thể hiện ở việc cho phép nâng mức sử dụng quỹ bình ổn giá lên 300 đồng, 500 đồng, rồi yêu cầu doanh nghiệp không tính lợi nhuận định mức 300 đồng vào giá thành xăng… Theo Cục trưởng Cục Quản lý giá – Nguyễn Tiến Thỏa, chính những điều chỉnh hướng tới người tiêu dùng này đã giúp giá xăng, lẽ ra phải tăng hơn 1.400 đồng, nay chỉ còn khoảng 650 đồng trong lần tăng ngày 28/8.
Người tiêu dùng vẫn mong sự chia sẻ lớn hơn thế, khi mà các khoản thuế, phí hiện đang làm giá thành xăng dầu trong nước bị đội lên gần 40%. Chuyện lỗ giả, lỗ thật của các doanh nghiệp cũng gây nhiều bức xúc và chưa rõ lỗ lãi ra sao, kể từ khi có quyền đòi tăng giá, nhiều cây xăng cứ đến hẹn 10 ngày lại “mất điện” hoặc “hết xăng”.
Câu hỏi đầu tiên được lãnh đạo Bộ Tài chính cũng như nhiều chuyên gia trong ngành giải thích rằng trong 3 loại thuế chính đánh vào xăng dầu hiện nay (VAT, tiêu thụ đặc biệt và thuế nhập khẩu), 2 loại đầu không không thuộc thẩm quyền điều chỉnh trực tiếp của Bộ và cũng đang được thu theo thông lệ quốc tế. Trong khi đó, thuế nhập khẩu hiện ở mức 12%, cũng mới được điều chỉnh sau hơn một năm duy trì ở 0%.
“Như vậy, Nhà nước cũng đã thể hiện sự chia sẻ với người tiêu dùng khi khó khăn. Nếu ở điều kiện thông thường, thuế nhập khẩu xăng dầu phải được thu ở barem 20%”, một lãnh đạo Bộ cho biết.
Với câu hỏi thứ 2, Cục trưởng Cục Quản lý giá thừa nhận kiểm tra tình trạng găm hàng của doanh nghiệp là không dễ bởi phải có điều tra, so sánh dựa trên số liệu mua bán hàng ngày của từng cây xăng. Thêm vào đó, theo các chuyên gia, với cơ chế hiện hành thì trách nhiệm chính trong việc quản lý hoạt động của doanh nghiệp lại không nằm ở Bộ Tài chính, mà phụ thuộc phần lớn ở Bộ Công Thương.
Về phần mình, đã hơn một lần các đại diện của ngành Công Thương khẳng định trách nhiệm chính của Bộ trong lĩnh vực này là “đảm bảo cho hơn 80 triệu người dân có đủ xăng dầu để dùng”. Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước – Võ Văn Quyền, trong cuộc trả lời báo chí cuối tháng 8 cũng khẳng định “nguồn cung xăng dầu hiện không thiếu”. Được đảm bảo như vậy nhưng cứ đến ngày cận kề điều chỉnh giá, người tiêu dùng từ Bắc chí Nam lại phải chứng kiến hàng loạt cây xăng với dấu hiệu găm hàng. Đợt “tổng kiểm tra” gần đây nhất của cơ quan chức năng chỉ phát hiện được 2 trường hợp “thực sự vi phạm” trong số những cây xăng này.
Theo Tổng cục Thống kê, tổng mức vận tải người và dịch vụ – hàng hóa đều tăng khoảng 10% trong 8 tháng đầu năm 2012 (theo Tổng cục Thống kê). Trong khi đó, theo Tổng cục Hải quan, nhập khẩu xăng dầu 8 tháng chỉ đạt 6,56 triệu tấn, tương đường gần 6,33 tỷ USD, giảm lần lượt 12,3% và 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân được chỉ ra là do các doanh nghiệp dè dặt nhập khẩu trong bối cảnh giá thế giới biến động mạnh, còn mức bán lẻ trong nước chưa thể điều chỉnh theo.
Trong hơn 2 tháng giữa năm, Nhà máy lọc dầu Dung Quất phải nghỉ bảo dưỡng, cũng là thời gian thị trường xăng dầu nội địa biến động mạnh nhất.
Hôm qua – 15/10, Thứ trưởng thường trực Hoàng Thế Liên đã chủ trì cuộc họp để nghe báo cáo tiến độ thực hiện các nhiệm vụ/đề án năm 2012 và đề xuất các nhiệm vụ năm 2013 của Bộ Tư pháp triển khai Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp (CCTP) đến năm 2020.
Công ty Luật, Văn phòng Luật sư dịch vụ luật sư
Cơ bản hoàn thành 6/11 nhiệm vụ CCTP
Trong năm 2012, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã giao cho các đơn vị thuộc Bộ thực hiện 11 nhiệm vụ/đề án liên quan đến CCTP. Đến nay, báo cáo của Viện Khoa học pháp lý (KHPL) cho biết, có 6 nhiệm vụ về cơ bản đã hoàn thành.
Trong đó có một số nhiệm vụ quan trọng như Báo cáo Ban chỉ đạo (BCĐ) CCTP Trung ương về một số nội dung trong Dự án Luật Giám định tư pháp mà các cơ quan tư pháp còn có ý kiến khác nhau; chuẩn bị ý kiến của Bộ Tư pháp về những nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp năm 1992 về Chính phủ, TAND và VKSND; báo cáo BCĐ Trung ương về kết quả thực hiện chủ trương thí điểm chế định thừa phát lại và phương hướng thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự (THADS)…
Riêng Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật TP.HCM thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật dự kiến được báo cáo BCĐ Trung ương vào hôm nay (16/10).
Đối với 5 nhiệm vụ/đề án đang tiếp tục triển khai thì có 2 đề án (nghiên cứu tổ chức, hoạt động của cơ quan THADS cấp huyện trong điều kiện thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực; chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác THA) được giao cho Tổng cục THADS. Theo đại diện Tổng cục THADS, bên cạnh đề án thứ nhất vẫn đang tổ chức thực hiện, đề án thứ hai gặp “trục trặc” ở khâu soạn thảo Quyết định thành lập Tổ công tác liên ngành. Do vậy, đây cũng là một trong hai nhiệm vụ/đề án hiện vẫn chưa làm thủ tục nhận kinh phí.
Cùng với yêu cầu đơn vị được giao tăng cường trách nhiệm trong triển khai nhiệm vụ CCTP (hoàn thành nhiệm đúng tiến độ, làm thủ tục nhận và quyết toán các kinh phí được giao), Thứ trưởng Hoàng Thế Liên đặc biệt nhấn mạnh tới Đề án đào tạo chung nguồn bổ nhiệm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư giai đoạn 2012 – 2015.
Đề án này được giao cho Học viện Tư pháp chủ trì nhưng trong quá trình thực hiện gặp một số khó khăn, vướng mắc do còn nhận thức khác nhau và chưa thống nhất quan điểm về nhiệm vụ đào tạo chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư giữa các ngành. Vì thế, cần phải có những lập luận thuyết phục để BCĐ Trung ương thấy hết mặt tích cực của đào tạo “3 chung” trong việc thống nhất cách đào tạo và bảo đảm chất lượng đào tạo các chức danh tư pháp.
Ưu tiên các nhiệm vụ mới phát sinh
Thực hiện kế hoạch hàng năm về xây dựng chương trình triển khai Nghị quyết 49, Viện KHPL đã nhận được 40 đề xuất của các đơn vị trong Bộ về các nhiệm vụ cần triển khai trong năm 2013. Phó Viện trưởng Viện KHPL Nguyễn Văn Hiển cho biết: Để lựa chọn các nhiệm vụ năm 2013 đúng trọng tâm và hiệu quả, Viện KHPL dự kiến sắp xếp các nhiệm vụ do các đơn vị đề xuất thành các nhóm trên cơ sở các tiêu chí ưu tiên theo thứ tự.
Sau khi nghe đại diện các đơn vị thuộc Bộ thảo luận, Thứ trưởng Liên nhất trí với đề xuất sắp xếp khá khoa học của Viện KHPL. Theo đó, nhóm ưu tiên hàng đầu là các nhiệm vụ/đề án của ngành Tư pháp trong năm 2013 đã được đưa vào Chương trình trọng tâm công tác CCTP giai đoạn 2012 – 2016 của BCĐ Trung ương, được Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp cụ thể hóa trong Chương trình số 39 về Chương trình của ngành Tư pháp triển khai Nghị quyết 49 và các nhiệm vụ/đề án đã được giao trong năm 2012 nhưng vẫn tiếp tục phải trình BCĐ Trung ương trong năm 2013. Tiếp đến là ưu tiên các nhiệm vụ/đề án mới phát sinh cần phải trình/xin ý kiến Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp/BCĐ Trung ương trong năm 2013, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm của CCTP thuộc chức năng quản lý của Bộ Tư pháp như THADS, luật sư, công chứng, giám định tư pháp..
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc phát sinh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là một tất yếu. HUNG NGUYEN lAW tự hào là nhà cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất về các dịch vụ liên quan đến lĩnh vực Dân sự, Hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
Điều kiện và thủ tục nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện như sau:
– Điều kiện nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt nam và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi.
Việc công dân Việt Nam nhận trẻ em là người nước ngoài làm con nuôi đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận tại Việt Nam. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Trong trường hợp việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Trong trường hợp việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của con nuôi.
Thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
– Trường hợp trẻ được xin làm con nuôi (không đích danh)
Bước 1:
+ Người xin nhận con nuôi nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp. Cục Con nuôi tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra và thẩm định điều kiện của người xin nhận con nuôi;
+ Cục Con nuôi gửi công văn cho Sở Tư pháp để đề nghị cơ sở nuôi dưỡng giới thiệu trẻ em;
+ Sở Tư pháp gửi công văn đề nghị cơ sở nuôi dưỡng xác định trẻ em thuộc danh sách đã báo cáo về Cục để giới thiệu;
+ Cơ sở nuôi dưỡng xác định trẻ em có đủ điều kiện và gửi công văn báo cáo kết quả giới thiệu cho Sở tư pháp;
+ Sở Tư pháp kiểm tra và gửi công văn báo cáo kết quả về Cục Con nuôi;
+ Cục Con nuôi thông báo cho người xin nhận con nuôi về trẻ em được giới thiệu (thông qua Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam); người xin nhận con nuôi trả lời Cục Con nuôi về việc có đồng ý nhận trẻ em được giới thiệu hay không;
Bước 2:
+ Cục Con nuôi gửi Công văn đề nghị Sở Tư pháp hướng dẫn cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ trẻ em (nếu người xin nhận con nuôi có văn bản trả lời đồng ý);
+ Cơ sở nuôi dưỡng lập 04 bộ hồ sơ của trẻ em và gửi về Sở Tư pháp;
+ Sở Tư pháp kiểm tra hồ sơ, thẩm tra tính hợp pháp của hồ sơ. Nếu thấy cần thiết thì đề nghị cơ quan công an địa phương xác minh để đảm bảo trẻ em có nguồn gốc rõ ràng. Sở Tư pháp có công văn gửi cho Cục Con nuôi kèm theo 01 bộ hồ sơ của trẻ em;
Bước 3:
+ Cục Con nuôi thẩm tra hồ sơ của trẻ em, cho ý kiến để Sở Tư pháp trình UBND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định về việc cho nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi;
+ Sở Tư pháp thông báo cho người xin nhận con nuôi đến Việt Nam hoàn tất thủ tục;
+ Sở Tư pháp trình UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương ra quyết định về việc cho nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi;
+ Người xin nhận con nuôi nhận Quyết định tại Lễ giao nhận con nuôi tại trụ sở của Sở Tư pháp.
– Trường hợp trẻ được trẻ được xin làm con nuôi (đích danh)
+ Thực hiện từ bước 2 đến bước 3;
+ Hồ sơ của người xin nhận con nuôi: Nộp trực tiếp tại Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp và do Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể.
+ Hồ sơ của trẻ em được nhận làm con nuôi: Nộp trực tiếp tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa – Sở Tư pháp.
– Thành phần, số lượng hồ sơ: Thành phần hồ sơ đối với trẻ em được nhận làm con nuôi người nước ngoài bao gồm:
+ Đơn xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi
+ Giấy khai sinh của trẻ em (Bản sao có chứng thực)
+ Giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi có chữ ký của những người có thẩm quyền sau: Người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng; Cha, mẹ trẻ (nếu cha mẹ trẻ còn sống) hoặc Người giám hộ (nếu cha mẹ trẻ đã chết) đối với trẻ đang sống tại gia đình; Trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên;
+ Giấy xác nhận của tổ chức y tế từ cấp huyện trở lên, xác nhận về tình trạng sức khoẻ của trẻ em;
+ Hai (02) ảnh mầu của trẻ em, chụp toàn thân cỡ 10 x15 cm hoặc 9x 12cm. Ngoài các giấy tờ qui định trên , tuỳ từng trường hợp hồ sơ của trẻ được cho làm con nuôi còn phải có các giấy tờ tương ứng sau: Đối với trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp, ngoài các giấy tờ nêu trên, hồ sơ của trẻ em được cho làm con nuôi còn phải có: Quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng;
Biên bản bàn giao trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng và giấy tờ tương ứng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Đối với trẻ em bị bỏ rơi: phải có Bản tường trình sự việc của người phát hiện trẻ em bị bỏ rơi; Biên bản về việc trẻ em bị bỏ rơi (có xác nhận của cơ quan công an hoặc chính quyền địa phương); giấy tờ chứng minh đã thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng (từ cấp tỉnh trở lên) về việc trẻ em bị bỏ rơi sau 30 ngày mà không có thân nhân đến nhận;
+ Đối với trẻ em mồ côi, phải có bản sao có công chứng hoặc chứng thực giấy chứng tử của cha, mẹ đẻ của trẻ em đó;
+ Đối với trẻ em có cha, mẹ còn sống thì phải có giấy tự nguyện đồng ý của cha mẹ cho con làm con nuôi;
+ Đối với trẻ em có cha. mẹ là người mất năng lực hành vi dân sự, phải có bản sao được công chứng quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên bố cha, mẹ đẻ của trẻ em đó mất năng lực hành vi dân sự;
+ Đối với trẻ em đang sống tại gia đình, ngoài các giấy tờ quy định nêu trên, còn phải có bản sao được chứng thực sổ hộ khẩu hoặc giấy đăng ký tạm trú có thời hạn của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ đang nuôi dưỡng trẻ em;
+ Đối với trẻ em khuyết tật, tàn tật, nạn nhân của chất độc hóa học, nhiễm HIV/AIDS, mắc bệnh hiểm nghèo khác thì phải có giấy xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền cấp theo quy định của Bộ Y tế và các quy định pháp luật khác có liên quan; đối với trẻ em mất năng lực hành vi dân sự thì phải có bản sao được chứng thực quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên bố trẻ em đó mất năng lực hành vi dân sự.
– Số lượng hồ sơ: 04 bộ
– Thời hạn giải quyết:
+ Trường hợp xin đích danh: 120 ngày kể từ ngày cục con nuôi nhận đủ hồ sơ hợp lệ của người xin nhận nuôi con;
+ Trường hợp xin không đích danh: 190 ngày, kể từ ngày Sở tư pháp nhận được công văn đề nghị giới thiệu trẻ của cục con nuôi. (Thời hạn trên chưa tính thời gian đề nghị công an xác minh trong trường hợp cần thiết và thời hạn xin gia hạn có mặt tại Việt Nam của người xin nhận nuôi con nuôi).
– Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính:
+ Tổ chức (đối với trẻ được nuôi dưỡng tại cơ sở nuôi dưỡng);
+ Cá nhân (đối với trẻ đang được nuôi dưỡng tại gia đình)
– Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính:
+ Cơ quan có thẩm quyền quyết định: Uỷ ban nhân dân tỉnh.
+ Cơ quan hoặc người có thẩm quyền được uỷ quyền hoặc phân cấp thực hiện (nếu có): Không
+ Cơ quan trực tiếp thực hiện TTHC: Sở Tư pháp
+ Cơ quan phối hợp (nếu có): Sở Lao động Thương binh và Xã Hội, Công an tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh.
– Kết quả của việc thực hiện thủ tục hành chính: Quyết định cho nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi