Tư vấn tranh chấp đất đai

Em có lô đất được cấp sổ đỏ năm 2002 do chưa sử dụng đến cũng chưa biết rõ ranh giới ở đâu giờ em xem lại thì bị lấn chiếm và ở vào. Em đòi thì họ không trả lại mà còn nói là em trộm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và làm vào đất lâm nghiệp của họ. Nhờ luật sư tư vấn giúp em giờ em phải làm thế nào ạ?

 

Luật Hưng Nguyên cảm ơn câu hỏi tư vấn của bạn. Về trường hợp của bạn, Luật sư của chúng tôi tư vấn như sau:

  1.     Về điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng dất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.

Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật:

–          Có giấy tờ về quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất có một trong các giấy tờ được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo pháp luật.

–          Trường hợp không có các giấy tờ theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 được cấp sổ đỏ khi đủ các điều kiện sau:

+ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày 01/07/2014 mà không có các giấy tờ về quyền sử dụng đất

+ Có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiejp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn.

+ Được UBND cấp xã nơi có đất là người sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp.

  1.     Việc giải quyết tranh chấp trong trường hợp bạn không trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất.

Theo thông tin bạn cung cấp, bạn đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Dựa vào các thông tin trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bạn có  thể xác định ranh giới mà bạn chưa xác định được.

Trong trường hợp bên thứ hai cho rằng bạn trộm sổ đỏ thì bạn có thể yêu cầu người đó chứng minh được các quyền hợp pháp với mảnh đất đó như thông qua các giấy tờ mua bán đất hợp pháp, sổ đỏ, sổ hồng, trích lục sơ đồ thửa đất …

Nếu hai bên xảy ra tranh chấp mà không thể tự mình giải quyết, có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật.

  1.     Thực hiện thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã
  2.     Thực hiện khởi kiện ra Tòa án nhân dân.

Nếu hòa giải không thành, các bên có thể khởi kiện ra Tòa.

1)      Trường hợp các bên đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đât đai năm 2013 thì do Tòa án giải quyết.

2)      Tranh chấp mà không có có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì đương sự được lựa chọn 1 trong 2 hình thức giải quyết sau:

–          Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp huyện hoặc cấp tỉnh

–          Khởi kiện tại tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Nếu có thắc mắc về nội dung cũng như thủ tục hướng dẫn về việc đất của mình bị lấn chiếm, quý khách có thể liên hệ trực tiếp với Công ty Luật Hưng Nguyên để được tư vấn pháp luật và hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!

Địa chỉ: Công ty Luật TNHH Hưng Nguyên, số 14N2, ngõ 90 Nguyễn Tuân, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Điện thoại: 024.8585 7869        .                                

Hotline: 098 775 6263

Email: Congtyluathungnguyen@gmail.com

Web: http://congtyluathungnguyen.com

 

 

Luật sư tư vấn thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất.

Xin chào Luật sư, tôi có một câu hỏi như sau: Tôi và chồng kết hôn năm 1992, vợ chồng tôi chúng tôi ở chung với bố mẹ chồng. Trước khi kết hôn, bố mẹ chồng có hứa sẽ cho vợ chồng chúng tôi mảnh đất phía sau nhà hiện đang ở. Trong thời gian ở cùng bố mẹ chồng, vợ chồng tôi có xây dựng nhà ở trên phần đất của bố mẹ chồng. Năm 1990, vợ chồng chúng tôi cùng các con dọn ra ở riêng do tôi phải chuyển công tác. Năm 2020, chồng tôi mất do bị bệnh. Ngôi nhà trên phần đất mà bố mẹ chồng tôi đang ở do em gái chồng tôi đang sử dụng làm đất canh tác và để ở. Bố mẹ chồng tôi mới mất năm ngoái, hiện tại vợ chồng tôi phát hiện em gái đã bán mảnh đất đang ở có cả phần đất mà ông bà hứa để lại cho vợ chồng chúng tôi. Vì vậy, tôi muốn hỏi vợ chồng tôi có thể lấy lại phần đất phía sau nhà mà ông bà đã hứa để lại cho chúng tôi hay không? Và phần đất ở phía trước chúng tôi có được hưởng một phần hay không?

Công ty Luật Hưng Nguyên xin chân thành cảm ơn chị đã gửi yêu cầu tư vấn tới công ty. Căn cứ vào nội dung yêu cầu tư vấn gửi đến, chúng tôi xin tư vấn như sau:

  1. Về phần đất là nơi vợ chồng chị từng ở cùng ông bà được xử lý như thế nào theo quy định của pháp luật?

Thứ nhất, về phần đất của bố mẹ chồng chị. Điều 459 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về tặng cho bất động sản như sau:

“Điều 459. Tặng cho bất động sản

  1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật.”

Như vậy, theo quy định trên, do bố mẹ chồng chị mới chỉ hứa cho anh chị đất mà chưa thực hiện các thủ tục tặng cho tài sản theo quy định của pháp luật nên trong trường hợp này về nguyên tắc thì phần tài sản trên vẫn thuộc quyền sở hữu hợp pháp của hai ông bà.

Thứ hai, về phần tài sản là căn nhà do ông bà và anh chị đã từng chung sống. Nếu anh chị có căn cứ chứng minh công sức đóng góp xây dựng căn nhà thì anh chị có thể giải quyết theo các phương án sau?

  • Phương án 1: Anh chị có thể thỏa thuận với em gái để đề nghị em gái hoàn lại giá trị căn nhà ở thời điểm hiện tại tương ứng với tỷ lệ công sức mà anh chị đã có công xây dựng trước đó.
  • Phương án 2: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 212 và Điều 208 Bộ luật dân sự 2015, do vợ chồng anh chị có công sức đóng góp, tạo lập nên căn nhà nên chị có thể thỏa thuận với em gái để xác lập quyền sở hữu chung đối với căn nhà đó.
  1. Về việc ông bà mất không để lại di chúc thì phần tài sản trên được giải quyết như thế nào?

Đối với trường hợp ông bà mất không để lại di chúc thì tài sản thừa kế trên sẽ được chia theo quy định của pháp luật.

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
  2. a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
  3. b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
  4. c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
  5. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
  6. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Như vậy, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Luật dân sự không phân biệt quyền thừa kế theo pháp luật của con trong giá thú hay ngoài giá thú đối với di sản của cha để lại.

Vì vậy, nếu có đầy đủ chứng cứ để chứng minh một người là con của người để lại di sản thì người này vẫn được pháp luật bảo vệ quyền được hưởng thừa kế. Mặt khác, chồng chị chết trước người để lại di sản thừa kế là bố mẹ chồng thì theo quy định của pháp luật tại Điều 652 BLDS về thừa kế thế vị, cháu sẽ được hưởng phần di sản này.

Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty Luật Hưng Nguyên cho câu hỏi của quý khách hàng. Trong trường hợp có vấn đề chưa rõ, quý khách xin vui lòng liên hệ với chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.

Địa chỉ: Công ty Luật TNHH Hưng Nguyên, số 14N2, ngõ 90 Nguyễn Tuân, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Điện thoại: 098 775 6263

Email: Congtyluathungnguyen@gmail.com

Web: http://congtyluathungnguyen.com

 

Công ty luật Hưng Nguyên – Khiếu kiện đất đai kéo dài một phần do văn bản luật

Thảo luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai, sáng nay, UBTV Quốc hội cho biết, một trong những nguyên nhân khiến công tác này còn nhiều bức xúc trong dân là do có sự chồng chéo trong các văn bản luật.

Luật chồng luật, luật chéo luật
Hiện nay, ngoài các luật: đất đai, khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành chính, còn có trên 20 luật và nhiều văn bản Chính phủ, các bộ, ngành có nội dung điều chỉnh quan hệ liên quan đến đất đai. Các văn bản này ban hành ở những thời điểm khác nhau nên còn có sự chồng chéo, một số quy định phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần trong thời gian ngắn, thiếu ổn định, tính khả thi không cao. Một số nội dung chưa phù hợp với thực tiễn và một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn thì chưa được quy định.
Bên cạnh đó,  Quy định quyền khiếu nại, quyền khởi kiện vụ án hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai, đối với pháp luật đất đai hạn chế hơn so với quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về tố tụng hành chính. Thời hiệu khiếu nại và khởi kiện đối theo pháp luật về Luật đất đai còn chưa thống nhất với pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính.
Đơn cử, Luật đất đai không quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại, còn đối với Luật khiếu nại, tố cáo thì quy định cụ thể thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết và thời hạn giải quyết khiếu nại mỗi lần tiếp theo không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý.
Hay luật Đất đai quy định quyết định của UBND cấp tỉnh giải quyết tranh chấp giữa cá nhân, hộ gia đình với nhau là quyết định giải quyết cuối cùng. Còn đối với Luật tố tụng hành chính thì mở rộng thẩm quyền giải quyết đối với loại tranh chấp này, trường hợp UBND cấp tỉnh giải quyết mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Một số văn bản hướng dẫn thi hành luật chưa kịp thời, chưa đầy đủ, như: vấn đề khôi phục quyền, lợi ích bị xâm phạm và việc bồi thường thiệt hại cho người khiếu nại; việc xử phạt hành vi vi phạm hành chính đối với khiếu nại, tố cáo; việc áp dụng luật để giải quyết những khiếu nại được thụ lý, giải quyết lần hai vào thời điểm sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo có hiệu lực thi hành.
Giá đất đền bù không ổn khiến người dân không yên
Chính sách pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai qua các thời kỳ có nhiều thay đổi, thiếu tính ổn định, chưa đồng bộ, có những quy định chưa sát thực tế, thiếu cụ thể. Các chính sách liên quan bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua các năm thay đổi theo hướng có lợi cho người dân gây so bì về quyền lợi giữa những người dân có đất bị thu hồi tại thời điểm trước và sau khi có chính sách mới.
Giá đất đền bù tại nhiều nơi chưa sát giá thị trường; có sự chênh lệch lớn giữa giá Nhà nước bồi thường và giá do nhà đầu tư thỏa thuận với người dân; giá đất tại các khu vực giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giá đất nội thị, ngoại thị trong cùng một đô thị, giá đất giữa đô thị và nông thôn trong cùng một tỉnh còn có sự chênh lệch lớn, có một số nơi chênh lệch quá lớn.
Chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn có những tồn tại và việc thực hiện quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch chưa nghiêm, dẫn tới tình trạng thu hồi đất để hoang, triển khai dự án chậm, lãng phí nguồn tài nguyên đất, trong khi đó người dân ở vùng dự án không còn đất sản xuất, không có việc làm dẫn đến bức xúc, khiếu kiện.
Quá trình thực hiện các chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã có những chính sách điều chỉnh về đất đai nhưng một số trường hợp do sai sót về trình tự, thủ tục, quản lý hồ sơ, giấy tờ. Đến nay khi đất đai ngày càng có giá thì những người sử dụng đất cũ hoặc con cháu của họ đã gửi đơn khiếu nại đòi lại đất.
UBTV Quốc hội cũng khẳng định sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về đất đai; sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức. Còn một bộ phận cán bộ, công chức năng lực hạn chế về kiến thức pháp luật, không được đào tạo sâu chuyên môn, nghiệp vụ lĩnh vực này, một số cán bộ sa sút phẩm chất đạo đức, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, bao che đối với cán bộ sai phạm.
Nhật Thanh