Dịch vụ tư vấn thành lập doanh nghiệp Công ty Luật Hưng Nguyên Luật doanh nghiệp 2005 và mới đây là Luật doanh nghiệp 2015 , Luật đầu tư 2015 có hiệu lực đã mở ra hành lang pháp lý thông thoáng, khá hoàn thiện cho việc khởi nghiệp. Có thể nói vấn đề khởi nghiệp, thành lập công ty đã được nhiều người quan tâm. Xu hướng hiện nay cho thấy, độ tuổi của những người chủ doanh nghiệp, những người khởi nghiệp còn rất trẻ. Từ 18 – 20 tuổi đã có thể đứng ra Thành lập công ty để kinh doanh riêng. Thủ tục đăng ký kinh doanh được cải thiện, việc nộp hồ sơ qua mạng giúp cho người dân, doanh nghiệp tiết kiệm rất nhiều thời gian, tiền bạc đã góp phần đưa câu chuyện khởi nghiệp thành lập công ty để kinh doanh ngày càng được nhiều người quan tâm.
Tổng đài tư vấn: 0987756263
Công ty Luật Hưng Nguyên Tư vấn pháp luật doanh nghiệp, thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh.
Khách hàng: Kính gửi Công ty luật Hưng Nguyên, tôi muốn mở công ty phân phối hàng hoá nhập khẩu. Cho tôi hỏi thủ tục bao gồm những giấy tờ gì và vốn đầu tư. Xin cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Trước tiên để mở một công ty bạn phải cân nhắc lựa chọn loại hình doanh nghiệp cho phù hợp với kế hoạch kinh doanh của mình, bên cạnh đó, các điều cơ bản bạn cần quan tâm giải quyết:
1. Chọn người cùng góp vốn với mình (trừ khi doanh nghiệp bạn mở thuộc loại hình doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do chính bạn làm chủ sở hữu).
2. Chọn tên công ty, địa điểm đặt trụ sở chính, chọn ngành nghề kinh doanh (có ngành nghề nhập khẩu/xuất khẩu các mặt hàng mà công ty kinh doanh).
3. Vốn công ty: nếu ngành nghề bạn định chọn không thuộc lĩnh vực phải có vốn pháp định (nhà nước yêu cầu phải có mức vốn tối thiểu được ký quỹ tại ngân hàng hoặc nằm trong tài khoản của các thành viên góp vốn được ngân hàng xác nhận) thì bạn có quyền đăng ký mức vốn điều lệ bao nhiêu tùy ý chí và kế hoạch kinh doanh của chính bạn
4. Thực hiện thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Sở KHĐT nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Tùy loại hình doanh nghiệp mà hồ sơ đăng ký có thể khác nhau.
Danh mục ngành nghề kinh doanh yêu cầu vốn pháp định theo quy định của pháp luật hiện hành:
STT
Ngành nghề
Vốn pháp định
Quy định
Ghi Chú
01
Kinh doanh bất động sản
6 tỷ đồng
Điều 3 NĐ 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007
Được rút tiền sau khi có Giấy phép
02
Dịch vụ đòi nợ
2 tỷ đồng
Điều 13 NĐ 104/2007/NĐ-CP ngày 14/6/2007
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
03
Dịch vụ bảo vệ (không được kinh doanh các ngành, nghề và dịch vụ khác ngoài Dịch vụ bảo vệ)
2 tỷ đồng
NĐ 52/2008/NĐ-CP ngày 22/4/2008
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
04
Dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
5 tỷ đồng
Điều 3 NĐ 126/2007/NĐ-CP ngày 1/8/2007
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
05
Sản xuất phim
1 tỷ đồng
Điểm a khoản 2 Điều 14 Luật Điện ảnh được sửa đổi, bổ sung năm 2009
Được rút tiền sau khi có Giấy phép
06
Dịch vụ lữ hành quốc tế
250 triệu
Khoản 2 Điều 15 Nghị định 92/2007/NĐ-CP. Đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 01/2012/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
07
Dịch vụ Giới thiệu việc làm
300 triệu
Thông tư 20/2005/TT-BLĐTBXH ngày 22/6/2005. Đã được sửa đổi bổ sung bởi Thông tư 27/2008/TT-BLĐTBXH
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
08
Ngân hàng thương mại cổ phần
1000 tỷ đồng
Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006) đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 10/2011/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
09
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
15 triệu USD
Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006) đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 10/2011/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
10
Quỹ tín dụng nhân dân trung ương
1000 tỷ
Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006) đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 10/2011/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
11
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở:
0.1 tỷ đồng
Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006) đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 10/2011/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
12
Công ty tài chính
300 tỷ đồng
Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006) đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 10/2011/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
13
Công ty cho thuê tài chính
100 tỷ đồng
Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006) đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 10/2011/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
14
Kinh doanh tại cảng hàng không quốc tế
100 tỷ đồng
Khoản 1 Điều 22 NĐ 83/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
15
Kinh doanh tại cảng hàng không nội địa
30 tỷ đồng
Khoản 1 Điều 22 NĐ 83/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
16
Cung cấp dịch vụ hàng không mà không phải là doanh nghiệp cảng hàng không:
Kinh doanh tại cảng hàng không quốc tế
30 tỷ đồng
Khoản 2 Điều 22 NĐ 83/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
Cung cấp dịch vụ hàng không mà không phải là doanh nghiệp cảng hàng không:
Kinh doanh tại cảng hàng không nội địa
10 tỷ đồng
Khoản 2 Điều 22 NĐ 83/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
17
Vận chuyển hàng không quốc tế:
Khai thác từ 1 đến 10 tàu bay
700 tỷ đồng
Khoản 1 Điều 8 Nghị định 30/2013/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
Vận chuyển hàng không quốc tế:Khai thác từ 11 đến 30 tàu bay
1000 tỷ đồng
Khoản 1 Điều 8 Nghị định 30/2013/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
Vận chuyển hàng không quốc tế:Khai thác trên 30 tàu bay
1300 tỷ đồng
Khoản 1 Điều 8 Nghị định 30/2013/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
18
Vận chuyển hàng không nội địa:Khai thác từ 1 đến 10 tàu bay
300 tỷ đồng
Khoản 1 Điều 8 Nghị định 30/2013/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
19
Vận chuyển hàng không nội địa: Khai thác từ 11 đến 30 tàu bay
600 tỷ đồng
Khoản 1 Điều 8 Nghị định 30/2013/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
20
Vận chuyển hàng không nội địa:Khai thác trên 30 tàu bay
700 tỷ đồng
Khoản 1 Điều 8 Nghị định 30/2013/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
21
Kinh doanh hàng không chung
100 tỷ đồng
Khoản 2 Điều 8 Nghị định 30/2013/NĐ-CP
Ký quỹ suốt quá trình hoạt động
22
Dịch vụ cho thuê lại lao động
2 tỷ
Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 55/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 22/05/2013
“Chất lượng áo với những “hạt lạ” và dung dịch độn trong áo cần hỏi bên Bộ Công thương sẽ rõ hơn vì bên đó quản lý về chất lượng hàng hóa này”, ông Nguyễn Huy Quang, Phó vụ trưởng vụ Pháp chế, Bộ Y tế cho biết.
Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Huy Quang, Phó vụ trưởng vụ Pháp chế, Bộ Y tế cho rằng: Ở khía cạnh của bộ Y tế chỉ có thể khuyến cáo người dân nên chọn sản phẩm áo ngực đảm bảo chất lượng, mặc vừa vặn không quá chật hay quá rộng để ngực không bị thắt, máu không lưu thông làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Áo cần thấm mồ hôi.
Còn về chất lượng áo với những “hạt lạ” và dung dịch độn trong áo cần hỏi bên Bộ Công thương sẽ rõ hơn vì bên đó quản lý về chất lượng hàng hóa này.
Theo bà Tống Thị Hoàng Oanh, giám đốc nhãn hàng Triump tại Việt Namthì công ty này vừa khuyến cáo tới nhân viên và đến đại lý bán hàng cần cẩn trọng. Có thể vì ham lợi mà gắn nhãn Triump vào sản phẩm áo lót của Trung Quốc.
Bà Oanh khuyến cáo, khi mua sản phẩm nên đến đại lý của hãng và lấy hóa đơn, mã hàng đầy đủ để được đảm bảo quyền lợi khi sử dụng sản phẩm.
Các sản phẩm của hãng này đều theo tiêu chuẩn của Triump và được đăng ký tiêu chất chất lượng ở Đức. Sản phẩm tuân thủ theo quy định của luật Việt Nam về đồ vải sợi.
“Với áo lót phụ nữ, hãng cũng có loại áo có lớp lót là dầu (baby oil) vô hại cho sức khỏe con người. Bao ni lông bọc ngoài đảm bảo bảo không bị thủng bóp trừ phi dùng vật sắc, nhọn. Với sản phẩm này được chúng tôi khuyến cáo không dùng máy giặt”, bà Oanh nói.
Ngoài ra, sản phẩm của Triump không có 6 hạt bên trong như hàng của Trung Quốc.
“Về áo ngực Trung Quốc, tôi cũng không dám chắc họ làm vì mục đích gì. Có thể là sáng tạo mới chăng? Nhưng cái này cần có cơ quan chức năng kiểm nghiệm và kết luận.
Với người tiêu dùng, nên chọn mua áo có chất lượng, vì áo đó áp sát vào da. Sau đó mới chú ý đến kiểu dáng, màu sắc, thời trang. Chọn áo ngực vừa với ngực của mỗi người cho phù hợp để áo có thể nâng đỡ bộ ngực”, bà Oanh tư vấn.
Hàng Đào, chợ Đồng Xuân đầy áo ngực có chứa chất lạ
Sáng nay, 31/10, Đội quản lý thị trường Hà Nội vừa tiến hành kiểm tra mặt hàng áo lót phụ nữ tại các ki ốt trong chợ Đồng Xuân và phố Hàng Đào. Qua đó, phát hiện, thu giữ hàng trăm chiếc có chứa túi chất lỏng cùng hạt nhựa.
Tại chợ Đồng Xuân, Đội quản lý thị trường số 14 tiến hành kiểm tra đột xuất 4 ki ốt Hồng Trang 41-A1, Khoa Huyền 65-A1, Thuyên Mùi 77-A1, Ngọc Phương 78-A1.
Đội quản lý thị trường đã thu giữ 92 áo lót có chứa túi chất lỏng cùng hạt nhựa. Đó là chất lỏng màu trong suốt, hơi quánh, có độ nóng và có khả năng gây ngứa nếu dây ra tay.
Bên trong túi chất lỏng là ba hạt nhựa trắng, nhỏ được cho là có tác dụng massage. Nếu không được cảnh báo, người tiêu dùng rất khó phát hiện. Đa phần áo lót bị thu giữ mang nhãn hiệu Hunshi.
Cũng trong quá trình kiểm tra, Đội quản lý thị trường số 14 phát hiện và tạm giữ 134 áo lót nữ nghi giả nhãn hiệu Wacoal, một nhãn hiệu nổi tiếng của Nhật đã được bảo hộ tại Việt Nam.
Tại cửa hàng số 67 Hàng Đào, Đội quản lý thị trường số 2 cũng thu giữ 28 áo lót nữ có chứa túi chất lỏng cùng hạt nhựa nhãn hiệu Mengaeroi. Ngoài ra, đội cũng thu giữ 33 gel áo lót nữ khác.
Toàn bộ số hàng trên không có hóa đơn chứng từ hợp pháp, không đảm bảo chất lượng. Lực lượng quản lý thị trường đã thu giữ số áo lót chứa túi chất lỏng, hạt nhựa, tiến hành giám định chất lượng để có cơ sở xử lý theo đúng pháp luật.
Ông Dương Ngọc Viện, Đội trưởng Đội quản lý thị trường số 17 (Chi cục quản lý thị trường Hà Nội) cho biết: Trong ngày nay và cả ngày mai lực lượng quản lý thị trường sẽ tiếp tục kiểm tra các sản phẩm áo ngực phụ nữ trên địa bàn Hà Nội.
Liệu các chất trong áo ngực phụ nữ có hại hay không, ông Viện cho rằng: Đội quản lý thị trường vẫn tiếp tục kiểm tra. Về việc áo ngực này độc hại thế nào cần phải giám định. Tuy nhiên, cái khó là với mặt hàng áo lót phụ nữ chưa có hàng rào chất lượng quy định, chưa có tiêu chuẩn nào nêu rõ. Chính vì vậy, nếu có giám định thì cũng không biết giám định chất gì?.
Vì vậy, cần có thời gian để đánh giá. Còn với chức năng của lực lượng quản lý thị trường, nếu đó là hàng nhập lậu, không nhãn mác, giấy tờ thì sẽ bị tạm giữ.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ********
Số: 36/2005/QH11
Hà Nội, ngày 14 tháng 06 năm 2005
LUẬT
THƯƠNG MẠI
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về hoạt động thương mại.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
MỤC 1
PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam.
2. Hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp các bên thoả thuận chọn áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này.
3. Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Thương nhân hoạt động thương mại theo quy định tại Điều 1 của Luật này.
2. Tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.
3. Căn cứ vào những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật này đối với cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
2. Hàng hóa bao gồm:
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đất đai.
3. Thói quen trong hoạt động thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên mặc nhiên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại.
4. Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.
5. Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử.
6. Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại ViệtNamlà đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập theo quy định của pháp luật ViệtNamđể tìm hiểu thị trường và thực hiện một số hoạt động xúc tiến thương mại mà pháp luật ViệtNamcho phép.
7. Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập và hoạt động thương mại tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
8. Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.
9. Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
10. Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại.
11. Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại.
12. Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này.
13. Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
14. Xuất xứ hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó.
15. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Điều 4. Áp dụng Luật thương mại và pháp luật có liên quan
1. Hoạt động thương mại phải tuân theo Luật thương mại và pháp luật có liên quan.
2. Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó.
3. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.
Điều 5. Áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế
Trong phần 1, chúng tôi đã phân tích: “Một số bất cập của Luật phá sản năm 2004”, trong nội dung của bài viết này, chúng tôi xin tiếp tục phân tích những bất cập của Luật phá sản doanh nghiệp 2004 (“LPSDN”) ở những nội dung sau:
1. Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Điều 23 LPSDN có quy định: “Trường hợp người nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án phải thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết”.
Theo quy định này, trường hợp người nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, có thể là các chủ nợ, thì trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án phải thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết.
Trên thực tế, việc quản lý và kiểm tra về địa điểm hoạt động kinh doanh ở Việt Nam còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp đăng ký hoạt động được một thời gian, sau đó thì “mất tích”, tức là khi chuyển địa điểm kinh doanh, doanh nghiệp, hợp tác xã cũng không thông báo với cơ quan thuế trực tiếp quản lý được biết. Chính vì vậy, khi có chủ nợ làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó thì Toà án không xác định được trụ sở doanh nghiệp ở đâu. Trong những trường hợp này, vừa rất khó xác định thẩm quyền giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản của Toà án và vừa không đủ điều kiện để Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Có những trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Chủ sở hữu là người nước ngoài, sau khi kinh doanh thua lỗ bỏ về nước, thì Tòa án cũng rất khó để xác định được địa chỉ của Chủ sở hữu ở nước ngoài, để gửi thông báo. Hoặc giả sử, những chủ sở hữu là người nước ngoài có nhận được thông báo của Tòa án thì họ cũng không đến Việt Nam để giải quyết. Thậm chí, có những trường hợp thực tế đã xảy ra, đó là chủ sở hữu là người Nước ngoài, sau khi nhận được thông báo của Tóa án, họ đồng ý đến Việt Nam giải quyết mọi vấn đề liên quan, những với điều kiện là phía Việt Nam phải bảo đảm cho họ xuất cảnh (rời khỏi Việt Nam) bất cứ lúc nào họ muốn.
Đối với những trường hợp như trên, Tòa án thường rất khó để giải quyết, trong khi với sức ép của người lao động và của các chủ nợ đòi hỏi Tòa án phải mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp để bảo đảm quyền và lợi ích của họ. Có nhiều Tòa án đã áp dụng điểm 5 Điều 24 Luật Phá sản để trả lại đơn. Thực ra, đây chỉ là biện pháp tình thế, nhưng việc này gây rất nhiều khó khăn cho các chủ nợ, đặc biệt là Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khi mà diện tích nhà xưởng bị bỏ không, người thuê không sử dụng nhưng không thể thu hồi cho người khác thuê. Công nhân không được trả nợ lương, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn phải thuê người bảo quản trông nom tài sản của doanh nghiệp.
2. Xác định mở hay không mở thủ tục phá sản:
Khoản 1, điều 28, LPSDN quy định: “Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Toà án phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản”.
Theo quy định thì Tòa án chỉ có thời hạn là ba mươi ngày để xác định việc mở thủ tục phá sản hay không. Thực tế, khi hồ sơ đến tay Thẩm Phán thì thời hạn này chỉ còn khoảng hơn hai mươi ngày để xem hồ sơ và ra quyết định. Khoảng thời gian này thường không đủ để Thẩm phán xem xét hồ sơ, triệu tập các phiên họp cần thiết với sự tham gia của chủ doanh nghiệp, các cá nhân và tổ chức khác có liên quan để xem xét những bằng chứng chứng minh doanh nghiệp thật sự lâm vào tình trạng phá sản.
3.Việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản:
Điều 9, LPSDN quy định: “Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản”.
Mục 5.1, chương I của Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Toà án nhân dân tối cao thì quy định như sau: “Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và trong quá trình nghiên cứu hồ sơ việc phá sản, Thẩm phán phải có công văn gửi cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều 9 của LPS yêu cầu họ cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trong công văn phải ghi rõ về yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, tính chất của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản và yêu cầu cử người đại diện cụ thể (họ tên, tuổi, chức vụ, chuyên môn nghiệp vụ) tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản.Sau khi nhận được công văn về việc cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản, nếu thấy người được cử không đạt yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, thì Thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đó cử người khác thay thế”.
Điều 16 của Nghị định 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 quy định: “Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán gửi văn bản đề nghị cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản tới cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan quy định tại Điều 15 của Nghị định này. Trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Thẩm phán, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản”.
Từ các quy định trên, cho thấy có sự mâu thuẫn giữa các văn bản hướng dẫn về việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
Trên thực tế, việc phối hợp giữa Toà án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thường bị chậm trễ do không cử được người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tình trạng này đã dẫn đến việc không kịp thời thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản nên đã tạo ra lỗ hổng pháp lý cho doanh nghiệp tẩu tán tài sản.
4. Vấn đề xử lý tài sản của doanh nghiệp yêu cầu tuyên bố phá sản
Đối với tài sản là quyền sử dụng đất của các doanh nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm, đa số doanh nghiệp được Nhà nước cho thuê đất để xây dựng nhà xưởng, văn phòng làm việc nhưng khi doanh nghiệp tiến hành giải quyết phá sản thường bị Nhà nước ra quyết định thu hồi đất theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật đất đai năm 2003. Vì vậy, khi tiến hành bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp thì chỉ được bán tài sản trên đất, nên số tài sản này thường không bán được dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản và các chủ nợ. Mặt khác, việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản phải qua nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, tài sản để lâu dẫn đến giảm rất nhiều hoặc không còn giá trị sử dụng, trong khi nhu cầu mua có nhưng người mua không mua được.
Về việc thanh lý, thu hồi khoản nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân nợ doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản (“con nợ”) hiện chưa có quy định cụ thể. Do đó, có nhiều trường hợp phía con nợ gây khó khăn không chịu trả, kéo dài thời gian thu hồi nợ của doanh nghiệp. Nhưng tổ thanh lý tài sản cũng không có biện pháp gì khác để tiến hành thu khoản nợ này.
Từ những bất cập của LPSDN nêu trên, thì trong thời gian tới, cần tiếp tục ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Phá sản năm 2004, nhằm hoàn thiện Luật và đưa vào thực tiễn áp dụng./.
ĐẦU TƯ CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM SỐ 59/2005/QH11 NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 2005
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về hoạt động đầu tư.
CHƯƠNG I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trên lãnh thổ ViệtNamvà đầu tư từ ViệtNamra nước ngoài.
2. Tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
3. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
4. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật ViệtNam, bao gồm:
a) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp;
b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã;
c) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật này có hiệu lực;
d) Hộ kinh doanh, cá nhân;
đ) Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
e) Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam .
5. Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
6. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam ; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.
7. Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư.
8. Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định.
9. Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
10. Vốn nhà nước là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước.
11. Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân sở hữu vốn hoặc người thay mặt chủ sở hữu hoặc người vay vốn và trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư.
12. Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
13. Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
14. Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư.
15. Lĩnh vực đầu tư có điều kiện là lĩnh vực chỉ được thực hiện đầu tư với các điều kiện cụ thể do pháp luật quy định.
16. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.
17. Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BOT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
18. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BTO) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
19. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
20. Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
21. Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
22. Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
23. Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Điều 4. Chính sách về đầu tư
1. Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam .
2. Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư.
3. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư.
4. Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
5. Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư.
Điều 5. Áp dụng pháp luật đầu tư, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế
1. Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Hoạt động đầu tư đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó.
3. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó.
4. Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
CHƯƠNG II BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ
Điều 6. Bảo đảm về vốn và tài sản
1. Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.
2. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng.
Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư.
3. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, việc thanh toán hoặc bồi thường tài sản quy định tại khoản 2 Điều này được thực hiện bằng đồng tiền tự do chuyển đổi và được quyền chuyển ra nước ngoài.
Từ khi có luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có tâm lý sợ oan sai liên quan đến trách nhiệm cá nhân, dẫn đến bỏ lọt tội phạm”, Trưởng phòng Kiểm sát điều tra (Viện KSND TP.HCM) cho biết.
Công ty Luật
Ngày 25/10, tại TP.HCM, Bộ Tư pháp tổ chức tọa đàm đánh giá 3 năm thi hành luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Lúng túng giải quyết bồi thường
Năm 1997, bà Trần Thị Thuận bị cơ quan CSĐT Công an quận 8 khởi tố tội “hủy hoại tài sản”. Tuy nhiên, quá trình điều tra không chứng minh được hành vi phạm tội của bà. 8 năm sau, VKSND quận 8 ra quyết định đình chỉ, tuyên bố bà Thuận không phạm tội.
VKSND quận 8 gửi thông báo cho bà Thuận biết, trường hợp của bà thuộc diện được bồi thường. Cơ quan này cũng nhiều lần mời bà Thuận đến nhận quyết định đình chỉ và tiến hành thương lượng nhưng bà Thuận không đến. UBND quận cũng lập đoàn công tác đến nhà bà Thuận nhưng bà không tiếp. “Trường hợp này phải giải quyết ra sao?”, ông Trần Thật, Trưởng phòng Kiểm sát điều tra (Viện KSND TP.HCM) nêu vấn đề.
Ông Vũ Thanh Bình, Phó phòng kiểm tra (Cục Thi hành án dân sự TP.HCM) cũng nêu một trường hợp khó xử lý khác.
Ông Trương Văn Lập (quận Bình Tân) yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự quận 11 bồi thường 26 lượng vàng (trị giá hơn 1 tỷ đồng) do một nhân viên của chi cục này thiếu sót trong quá trình xác minh tài sản thi hành bản án của TAND TP.HCM để người phải thi hành án là ông Hồ A Cẩu tẩu tán nhà, trốn tránh thi hành án.
Tuy nhiên, Chi cục Thi hành án dân sự quận 11 chưa thể xác định được mức độ thiệt hại do căn nhà mà ông Cẩu tẩu tán là tài sản chung của gia đình ông Cẩu. Hơn nữa, đến nay căn nhà đã được sang tên nhiều người.
“Việc xác định thiệt hại theo luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong vụ này đang gặp khó khăn. Những cơ quan nào phối hợp cùng với cơ quan Thi hành án dân sự quận để xác minh thiệt hại cũng chưa có hướng dẫn cụ thể”, ông Bình nói.
Một lo ngại khác, ông Trần Thật thừa nhận, từ khi có luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có tâm lý sợ oan sai liên quan đến trách nhiệm cá nhân, dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
Vị đại diện Viện KSND TP.HCM nói, kể từ lúc “thò bút” phê chuẩn lệnh bắt tạm giam để điều tra đến lúc kết thúc vụ án, Viện kiểm sát chịu trách nhiệm từ đầu đến cuối. Có những vụ án, hành vi phạm tội là có thật nhưng do sai sót trong việc thu thập chứng cứ, quy trình xử lý chứng cứ nên nhiều khi trách nhiệm bồi thường thuộc về Viện kiểm sát.
Từ đó, không ít kiểm sát viên rơi vào tâm lý, thà bỏ lột tội phạm còn hơn bắt giữ oan sai, liên đới đến trách nhiệm cá nhân. Nhưng chính điều đó dẫn đến hệ quả là không ngăn chặn được tội phạm, gây hậu quả khôn lường.
Ông Trần Thật đề nghị xây dựng cơ chế ngăn chặn tình trạng sợ oan sai dẫn đến bỏ lọt tội phạm cũng như cơ chế đãi ngộ tương xứng đối với người thực hiện công vụ liên quan đến việc thi hành luật này.
Người bị oan sai là doanh nghiệp xử lý thế nào?
Nhiều đại biểu cũng cho rằng, đối với những người làm công ăn lương thì có thể căn cứ vào tài sản là tiền lương để bồi thường thiệt hại nhưng đối với các doanh nghiệp, sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang, đảng viên, cán bộ, người nước ngoài… thì chưa biết hướng xử lý vì khó xác định tổn hại về vật chất và tinh thần.
“Đối với người bị oan là các chủ doanh nghiệp, việc xác định thiệt hại về vật chất là rất khó khăn. Ví dụ khi một chủ doanh nghiệp bị oan sai, họ sẽ mất hợp đồng kinh tế, mất đối tác về sau và nhất là ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp… thì sẽ được tính toán bồi thường như thế nào? Hiện chưa có hướng dẫn”, đại diện Viện KSND TP.HCM lo ngại.
Thừa nhận trong quá trình triển khai và bản thân luật có nhiều hạn chế, Cục trưởng Cục Bồi thường Nhà nước (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thanh Tịnh khẳng định, mặc dù đã có thiệt hại thực tế xảy ra nhưng người bị thiệt hại không có quyền yêu cầu bồi thường ngay mà phải thực hiện các thủ tục cần thiết để có được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng chưa có gây khó khăn trong công tác xử lý…
Để có hướng xử lý cụ thể các vụ việc bồi thường thiệt hại, ông Tịnh cho biết, các bộ ngành đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo văn bản hướng dẫn thi hành luật để ban hành cuối năm nay hoặc đầu năm sau.
Đối với việc xác định thiệt hại của chủ doanh nghiệp, ông Tịnh cho rằng, nếu thu nhập xác định được thì phải bồi thường đầy đủ cho họ. “Mà đã là thu nhập xác định được thì dù là chủ doanh nghiệp cũng phải có căn cứ để chứng minh. Chủ doanh nghiệp cũng có lương. Nếu chủ doanh nghiệp có thu nhập 50-100 triệu mỗi tháng thì chúng ta cũng phải bồi thường”, ông Tịnh nói.
Còn nếu thu nhập không xác định được, ông Tịnh cho biết, sẽ áp dụng lương tối thiểu để tính toán bồi thường thiệt hại.
Văn hóa trong hoạt động xét xử góp phần tích cực vào việc giữ gìn và phát triển văn hóa Việt Nam, được hình thành và tồn tại trong hoạt động xét xử của tòa án.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, văn hóa phiên tòa chưa được quan tâm đúng mức. Hiện vẫn chưa có quy ước, chuẩn mực chung cho những người tham gia tố tụng và tiến hành tố tụng về ứng xử trước tòa nên vẫn còn lắm phiên tòa “cười ra nước mắt”.
Công ty Luật Hưng Nguyên
Tại phiên tòa, không ít người tham gia tố tụng và cả người tiến hành tố tụng có những lời nói, hành động thiếu văn hóa. Trụ sở tòa án nào cũng có bảng nội quy: “Mọi người đến dự phiên tòa phải ăn mặc nghiêm chỉnh, không nói chuyện, không vỗ tay, không đi lại trong phòng xử án, phải tắt điện thoại di động; trẻ em dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, nếu không được tòa triệu tập…” nhưng các quy định này ít được chấp hành. Có phiên tòa còn để cho người nhà nạn nhân quấn khăn xô, mặc áo tang, mang di ảnh của người bị hại vào ngồi hết cả mấy hàng ghế đầu của phòng xử án. Có phiên tòa mà ở đó tiếng la hét, kêu gào của thân nhân bị hại, tiếng khóc của trẻ em, tiếng chuông điện thoại thay nhau lên tiếng và người ta thản nhiên nói cười như ở nhà! Có trường hợp các đương sự mắng chửi, rượt đuổi, đánh HĐXX ngay tại phiên tòa. Thậm chí có phiên tòa bị cáo bê cả vành móng ngựa ném lên HĐXX; có vụ phải huy động cả lực lượng cơ động đến để “giải vây”… Để xảy ra tình trạng thiếu văn hóa này, không chỉ có lỗi từ phía người dự phiên tòa mà không ít trường hợp lỗi từ phía những người tiến hành tố tụng và công tác tổ chức phiên tòa. Ở các nước, nếu ai có cử chỉ hoặc lời lẽ xúc phạm tòa án sẽ bị xử phạt rất nặng. Còn ở ta, nếu có người vi phạm nội quy cũng chỉ bị nhắc nhở và yêu cầu khắc phục, nặng nhất là yêu cầu rời khỏi phòng xử án!
Ngôn ngữ dùng trong phiên tòa cũng rất tùy hứng; tiếng nước ngoài, tiếng địa phương, tiếng lóng, thậm chí có cả những từ ngữ người ta chỉ thấy ở “đầu đường, xó chợ” cũng được dùng trong phiên tòa! Có trường hợp thiếu kiềm chế rồi chửi thề, cười nói oang oang trong phiên tòa; có người tiến hành tố tụng còn nói lắp, nói ngọng. Có phiên tòa không cho bị cáo xưng tôi, còn đối với người tham gia tố tụng khác thì lại được! Chủ tọa phiên tòa cũng không giải thích vì sao lại bất nhất như vậy? Luật sư hỏi bị cáo hoặc người tham gia tố tụng khác nhưng khi họ trả lời lại phải trả lời cho HĐXX chứ không được trả lời cho luật sư, cũng chẳng thấy ai giải thích và mỗi người tự “diễn nôm” theo cách hiểu của mình. Có những phiên tòa bị cáo ít học nhưng chủ tọa cứ vặn đi vặn lại: “Thời điểm bị cáo gây án lúc 9 giờ tối là mấy giờ?” làm bị cáo sững sờ không hiểu. Tòa cứ lặp đi lặp lại nhiều lần câu hỏi và bị cáo vẫn một mực trả lời “9 giờ tối”. Bực mình, chủ tọa mới nói rõ ý định “thống nhất giờ giấc” của mình: 9 giờ là 21 giờ, sao bị cáo chậm tiêu quá! “Khen” bị cáo xong, chủ tọa cũng chẳng giải thích vì sao lại quy đổi rắc rối như thế…
Hoạt động xét xử tại phiên tòa giữ một vị trí rất quan trọng, là nơi tập trung trí tuệ, thể hiện đầy đủ nhất trình độ, năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, đồng thời là nơi biểu hiện tập trung nhất của nền văn hóa tư pháp. Thông qua phiên tòa, những giá trị văn hóa có tác dụng giáo dục không chỉ đối với những người tham gia tố tụng, mà còn đối với những người dự phiên tòa.
Để một phiên tòa có văn hóa, cần phải chuẩn hóa cách tổ chức phiên tòa, từ cách sắp xếp chỗ ngồi, trang phục, cách xưng hô… và phải coi đây là một trong những nội dung cơ bản của tiến trình cải cách tư pháp.
Thanh tra Chính phủ phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) ngày 16/10 tổ chức Hội nghị đối thoại chính sách với DN tại Hà Nội. Các đại biểu tham dự hội nghị tập trung làm rõ về tính minh bạch và nhất quán trong thực hiện các quy định liên quan tới lĩnh vực tín dụng – ngân hàng; đất đai; thanh tra, kiểm tra và phòng, chống tham nhũng.
Công ty Luật Hưng Nguyên
Nguy cơ nảy sinh hối lộ
Theo thống kê của VCCI, hiện khá nhiều DN Việt Nam dường như vẫn còn xa lạ với khái niệm minh bạch, nhất quán. Trong khi đó, đối với các Cty đa quốc gia đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, khái niệm trên lại khá phổ biến. Các DN này coi thực hiện tính minh bạch, nhất quán là một đặc trưng trong phương thức kinh doanh, thậm chí xác định nó là giá trị cốt lõi của DN.
Tại hội nghị nhiều đại biểu cho rằng, chính sách nhất quán, minh bạch sẽ giúp chính DN xây dựng được hình ảnh, duy trì sự tin cậy của các đối tác, khách hàng, cổ đông… cải thiện năng lực cạnh tranh, chất lượng sản phẩm và môi trường kinh doanh nói chung.
Tuy nhiên, không ít DN gặp phải nhiều hạn chế trong khả năng tiếp cận thông tin liên quan tới các lĩnh vực đất đai, tín dụng – ngân hàng, thanh tra, kiểm tra, chống gian lận trong kinh doanh và phòng, chống tham nhũng. Từ đó nảy sinh những bất cập trong chính sách, pháp luật có nguy cơ làm nảy sinh tệ hối lộ, tác động tiêu cực tới tính liêm chính và minh bạch trong hoạt động kinh doanh.
Theo ông Vũ Tiến Vinh – Giám đốc Pháp lý và Tuân thủ, Cty TNHH ABB Việt Nam, nhất quán và minh bạch là những yếu tố vô cùng quan trọng để có thể giúp các tổ chức, DN giảm thiểu chi phí bất hợp lý. Về lâu dài, các đại biểu khuyến nghị cần sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm tăng cường công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Thẳng thắn đối thoại cùng DN
Liên quan đến hoạt động kinh doanh của các cơ quan quân đội và công an liệu có ảnh hưởng gì tới các DN khác, Phó Cục trưởng Cục Chống tham nhũng (Thanh tra Chính phủ) Ngô Mạnh Hùng nhấn mạnh, quan trọng là chúng ta đã có các cơ chế thanh tra, giám sát các DN này để khi tham gia hoạt động kinh tế họ không có đặc quyền, đặc lợi.
Hơn nữa, chủ trương của Đảng và Nhà nước hiện nay là đang “bóc tách” chức năng quản lý nhà nước với chức năng kinh doanh của các cơ quan quản lý; đang xây dựng cơ chế để bảo đảm tính cạnh tranh bình đẳng như các chủ thể DN chứ không có chuyện “xin chính sách” để tạo thuận lợi hơn cho các DN đặc thù. Trên tinh thần ấy, Dự thảo Luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi) cũng đang xây dựng cơ chế kiểm tra, thanh tra bình đẳng giữa các DN.
Về khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, theo Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách và Pháp chế (Bộ TN&MT) Bùi Sỹ Dũng, khiếu nại về đất đai chủ yếu là liên quan đến đền bù, giải phóng mặt bằng, trong đó phần lớn là giá đất bồi thường của Nhà nước khác xa so với giá thị trường. Vì vậy, để giải quyết căn bản vấn đề này, Luật Đất đai (sửa đổi) tới đây dự kiến sẽ đổi mới quy định khung giá được chi tiết hóa theo các tỉnh, so với trước đây là theo vùng, còn bảng giá được ổn định trong vòng 5 năm, so với trước đây là 1 năm…
Trao đổi với báo chí bên lề Hội nghị đối thoại, Chánh Văn phòng Cơ quan Thanh tra Giám sát ngân hàng (NHNN Việt Nam) Trương Ngọc Anh cho biết, vấn đề công khai, minh bạch trong lĩnh vực tín dụng – ngân hàng có 2 góc độ. Đối với các tổ chức tín dụng là các ngân hàng thương mại, lại là Cty CP đại chúng mà niêm yết cổ phiếu thì phải công khai theo Luật Chứng khoán. Nội dung công khai của tổ chức tín dụng bao gồm tài chính và một số nội dung khác.Đối với NHNN, trước hết công khai toàn bộ các quy phạm pháp luật. Riêng hoạt động thanh tra, kiểm tra thì cũng có yêu cầu về công khai kết luận thanh tra nhưng hiện nay kết luận thanh tra mới được công khai từng phần. NHNN cũng đang xây dựng Đề án công khai, minh bạch trình Thủ tướng Chính phủ và hy vọng là đầu năm 2013, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét phê duyệt Đề án này.
Có muôn vàn lý do để án dân sự không thể thi hành, trong đó có những bất cập trong quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS). Những tồn tại này khiến cho cơ quan thi hành án “lao đao”, còn ngành Tòa án thì dù biết đấy nhưng vẫn “không thể làm khác”.
Công ty Luật Hưng Nguyên
Đó là những trường hợp người nghiện, người mang vác thuê, kể cả buôn bán ma túy để thỏa những cơn nghiện nhất thời. Họ không có tài sản, cơm ăn phải có người nuôi, thậm chí đến một địa chỉ cư trú cũng không có… thì việc thi hành án mấy chục triệu là điều “không tưởng”. Nhiều vụ chấp hành án xong, ra tù, người phải thi hành án bỏ địa phương đi “mất tích”, đến 50 ngàn án phí hình sự (nay là 200 ngàn) Nhà nước cũng không đòi được.
Ngành Thi hành án dân sự nhiều lần bức xúc vì cho rằng, các vị “quan tòa” chỉ tuyên án cho “sướng miệng”, mà không quan tâm xem việc tuyên đó liệu có khả thi không. Không chỉ là những vụ tuyên án trong khi người phạm tội không có tài sản, mà trong đó có cả những vụ tuyên nhầm, tuyên sai, tuyên không rõ địa chỉ… cũng làm cho lượng án tồn đọng ngày một tăng.
Đó là chưa kể, để lần tìm xem địa chỉ của đương sự ở đâu, tài sản như thế nào… nhiều phen thi hành án phải “mướt mải” năm lần bảy lượt hỏi Tòa. Có Tòa trả lời, có Tòa không, khiến cho việc thi hành án càng trở nên khó khăn, bế tắc.
Tuy nhiên, các Tòa án cũng có lý của riêng họ. Ví dụ như trước kia, theo quy định của BLHS, cứ “dính” đến ma túy là phạt tối thiểu 20 triệu, mặc dù Tòa thừa biết bị cáo đó tiền bạc không có một cắc cũng vẫn phải tuyên, vì nếu không tuyên, án sẽ bị hủy vì vi phạm pháp luật. Khoản tiền phạt đó cũng giống như khoản án phí chỉ 200 ngàn, nhiều người không có điều kiện nộp mà vẫn tuyên, dù biết sau đó “trách nhiệm” đổ lên vai thi hành án.
Căn cơ để giải quyết vấn đề này là sửa luật, trong đó có cả BLHS, cả Luật Thi hành án dân sự và các luật liên quan. Tuy nhiên, muốn sửa luật thì đòi hỏi cần có thời gian, theo một quy trình nhất định. Vì vậy, trước mắt để hạn chế việc án tuyên mà không thể thi hành thì ngành Tòa án cần tuyên những bản án chính xác, rõ ràng.
Các cơ quan tố tụng cần áp dụng kịp thời các biện pháp kê biên để tránh việc tẩu tán tài sản, đảm bảo cho quá trình thi hành án. Tự thân cơ quan thi hành án cũng phải nâng cao trách nhiệm của mình trong việc thi hành phần dân sự trong bản án hình sự.
Hiện nay, Đề án miễn thi hành án đối với những khoản thu cho ngân sách Nhà nước không có điều kiện thi hành tính đến ngày 1/7/2009 đã được trình Chính phủ, dự kiến được trình ra Quốc hội vào kỳ họp thứ 4 tới đây. Nếu Đề án được thông qua thì sẽ giải quyết được một lượng không nhỏ án đang “đọng” tại các cơ quan thi hành án dân sự.