Tự ứng cử và trượt Đại biểu HĐND xã, Chủ tịch xã Phạm Xuân Tứ được chính quyền địa phương định hướng sang làm Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ.
Liên quan tới trường hợp hai cha con Chủ tịch Phạm Xuân Tứ và Bí thư đoàn xã Phạm Xuân Ý (xã Tùng Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) tự ứng cử HĐND nhưng đều bị rớt, mới đây, hôm 17/6, ông Nguyễn Văn Lâm – Bí thư Đảng uỷ xã Tùng Lâm cho biết, xã đang định hướng để ông Tứ chuyển sang giữ chức cụ Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ sau khi bầu chức danh Chủ tịch.
Việc ông Phạm Xuân Tứ trượt Đại biểu HĐND xã nhưng lại được định hướng làm Phó Bí thư khiến người dân địa phương bất ngờ. Tuy nhiên, theo lý giải của Bí thư Đảng uỷ xã, khi ông Tứ không còn giữ chức vụ Chủ tịch xã nhưng vẫn còn chức danh Phó Bí thư, “lại chưa bị kỷ luật gì cả nên địa phương phải xếp vị trí cho ông ấy” – (Nguyễn Văn Lâm – PV).
Trao đổi với phóng viên về quy trình được định hướng sang làm Phó Bí thư của ông Phạm Xuân Tứ, Luật sư Nguyễn Văn Nguyên, Giám đốc Công ty Luật Hưng Nguyên (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) cho biết, việc “định hướng sang làm Phó Bí thư” của ông Tứ cần được nhìn nhận dưới góc độ công tác tổ chức cán bộ và dư luận nhân dân để giải quyết được thấu đáo.
Luật sư Nguyễn Văn Nguyên phân tích, theo luật tổ chức Chính quyền địa phương thì Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Như vậy, Đại biểu HĐND phải là người có uy tín, được nhân dân tin tưởng thay mình làm đại diện để nói lên ý chí, nguyện vọng. Là cán bộ thì phải có uy tín, được dân mến, dân yêu. Vậy thì một người đã không được nhân dân tin tưởng bầu vào HĐND thì nên xin nghỉ hoặc có cơ chế cho họ nghỉ việc.
“Nếu bố trí người không được tín nhiệm làm những công việc ở địa phương thì làm cho nhân dân không tâm phục, khẩu phục, dễ nảy sinh các vấn đề bức xúc trong dư luận và địa phương” – Luật sư Nguyên nhấn mạnh.
Còn theo nhận định của Luật sư Lê Văn Thiệp, tổ chức Đảng sẽ có những quy định riêng về tổ chức cán bộ. Việc Chủ tịch xã rớt HĐND được định hướng sang làm Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ có thể thuần túy là sự sắp xếp của cơ quan, tổ chức Đảng ở địa phương.
Trước đó, tại cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội (QH) và HĐND các cấp diễn ra vào ngày 22/5, ông Phạm Xuân Tứ, Chủ tịch xã Tùng Lâm, cùng ông Phạm Xuân Ý (con ông Tứ) – Bí thư Đoàn xã Tùng Lâm, ra ứng cử đại biểu HĐND xã nhiệm kỳ 2016 – 2021 tại tổ bầu cử số 1 (thôn Khoa Trường, xã Tùng Lâm). Tổ bầu cử này có 794 cử tri.
Kết quả kiểm phiếu tại tổ bầu cử này, ông Tứ đạt 49,9% phiếu bầu, ông Ý đạt 36% phiếu bầu. Cả 2 ông đều không đạt tỷ lệ quá bán theo quy định nên đã “rớt” đại biểu HĐND xã. Được biết, ông Tứ và ông Ý là hai bố con, cùng ra ứng cử tại tổ bầu cử số 1 của xã Tùng Lâm.
Trong vụ tai nạn thảm khốc khiến 7 người chết trên đèo Prenn, với hành vi không đặt biển cảnh báo khi tiến hành sửa chữa đường đèo, chủ đầu tư và đơn vị thi công có thể bị xử phạt.
Liên quan vụ tai nạn xe khách thảm khốc trên đèo Prenn khiến 7 người tử vong xảy ra vào trưa ngày 19/6, tại buổi họp sau tai nạn giữa UBND tỉnh Lâm Đồng và Bộ Giao thông Vận tải, ông Khuất Việt Hùng – Phó chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia – cho rằng, công tác thi công giữa đèo Prenn hết sức lỏng lẻo, đặc biệt là vấn đề không đặt biển báo từ xa.
“Khu vực đèo Prenn quanh co, nguy hiểm vậy mà tôi không thấy biển cảnh báo gì cả. Đối với tuyến đường này, đơn vị sửa chữa phải đặt biển từ xa để tài xế điều khiển phương tiện được biết” – Phó Chủ tịch Uỷ ban An toàn Giao thông Quốc phát biểu.
Được biết, vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng và thương tâm trên đèo Prenn để lại nhiều đau thương cho thân nhân những người bị nạn. Cùng với đó, dư luận cũng đang đặt ra những trách nhiệm của đơn vị thi công và chủ đầu tư khi tiến hành sửa đường đèo mà không hề đặt bất kỳ biển cảnh báo này cho người tham gia giao thông.
Trao đổi với phóng viên về vấn đề trên, Luật sư Nguyễn Văn Nguyên, Giám đốc Công ty Luật Hưng Nguyên (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) cho biết, theo thông tin được đăng tải trên báo chí thì nguyên nhân vụ tai nạn có một phần trách nhiệm thuộc về đơn vị đang thi công, sửa chữa đường vì không đặt biển cảnh báo từ xa nên dễ dẫn đến các tình huống tai nạn.
Cụ thể, với hành vi này, chủ đầu tư và đơn vị thi công có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 121/2013/NĐ-CP ngày 10/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, kinh doanh bất động sản, khai thác, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở, cụ thể:
Chủ đầu tư có thể bị xử phạt theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 15.Vi phạm quy định về giám sát thi công xây dựng công trình:
“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Không treo biển báo tại công trường thi công hoặc biển báo không đầy đủ nội dung theo quy định;”
– Đơn vị thi công có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 28 Nghị định 121/2013/NĐ-CP ngày 10/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, kinh doanh bất động sản, khai thác, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở quy định (Vi phạm quy định về an toàn trong thi công xây dựng công trình), nếu đơn vị thi công trong quá trình thi công không có biển báo an toàn thì có thể bị xử phạt từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Trường hợp nếu xác định lỗi trực tiếp của cá nhân thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự về Tội vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng.
“1. Người nào vi phạm quy định về xây dựng trong các lĩnh vực khảo sát, thiết kế, thi công, sử dụng nguyên liệu, vật liệu, máy móc, nghiệm thu công trình hay các lĩnh vực khác nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 220 của Bộ luật này gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Là người có chức vụ, quyền hạn;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ tám năm đến hai mươi năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Luật sư Hà Nội – Ngày 18-10, truyền thông CHDCND Triều Tiên đưa tin chính quyền Bình Nhưỡng đã đồng ý cho các nhà đầu tư nước ngoài thành lập một khu công nghệ cao tại Kaesong, ngay cạnh khu công nghiệp Kaesong mới được mở cửa trở lại.
Hãng thông tấn CHDCND Triều Tiên KCNA đưa tin Bình Nhưỡng đã đạt thỏa thuận xây khu công nghệ cao ở Kaesong với sự tham gia của một nhóm các công ty Đông Á và Trung Đông, trong đó có hãng Jurong Consultants và OKP Holdings của Singapore, P&T Architects & Engineers của Hong Kong.
“Hai bên sẽ nhanh chóng bước vào giai đoạn thực hiện dự án – KCNA cho biết – Các công ty nước ngoài cũng đã đồng ý lập liên doanh với CHDCND Triều Tiên để xây dựng một đường cao tốc nối liền sân bay Bình Nhưỡng và Kaesong”.
Phản ứng với thông tin do KCNA đưa ra, hãng OKP Holdings tuyên bố mới chỉ tham gia vào dự án này trong “giai đoạn sơ khởi”. Còn các công ty khác từ chối bình luận.
Bộ Thống nhất Hàn Quốc tuyên bố dự án này không liên quan đến khu công nghiệp chung Kaesong đang hiện hữu. Trước đó, Seou từng yêu cầu Bình Nhưỡng cho phép nước ngoài đầu tư vào khu công nghiệp chung Kaesong để ngăn chặn nguy cơ khu công nghiệp này lại bị đóng cửa bất ngờ.
CHDCND Triều Tiên đóng cửa khu công nghiệp chung Kaesong hồi tháng 4-2013 khi rút toàn bộ 53.000 công nhân ra khỏi khu công nghiệp này. Hiện tại, khu công nghiệp Kaesong đã được mở cửa trở lại nhưng quan hệ liên Triều lại có dấu hiệu căng thẳng.
Báo CHDCND Triều Tiên Rodong Sinmun cũng đưa tin Bình Nhưỡng vừa bế mạc một diễn đàn quốc tế với sự tham gia của các chuyên gia đến từ Mỹ, Trung Quốc, Canada, Ấn Độ… để bàn về việc phát triển các khu kinh tế đặc biệt tại nước này.
NGUYỆT PHƯƠNG (Tuoi tre)
Công ty luật tại Hà Nội, Văn phòng luật sư tại Hà Nội
Công ty luật Hưng Nguyên – Theo Bộ Giao thông Vận tải, nhu cầu vốn xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông ở nước ta ngày càng tăng. Nếu như giai đoạn 2011 – 2015 cần khoảng 480 nghìn tỷ đồng, thì 5 năm tiếp theo (từ 2016 – 2020) là 730 nghìn tỷ đồng. Trong điều kiện khó khăn của kinh tế hiện nay, việc có được nguồn vốn khổng lồ như trên gặp không ít khó khăn, vì thế vấn đề mở rộng hợp tác công – tư cần được đẩy mạnh hơn nữa. Ngoài dự án Dầu Giây – Phan Thiết, một số dự án giao thông lớn khác như đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu, đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận, dự án cảng hàng không quốc tế Long Thành… đang được Bộ Giao thông – Vận tải đề xuất áp dụng theo hình thức hợp tác công tư; Thành phố Đà Nẵng cũng đang đề xuất áp dụng cơ chế PPP đối với một số dự án lớn. Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế, hợp tác công tư ở nước ta còn rất mới, hơn nữa khu vực kinh tế tư nhân chưa “mặn mà”, vì các quy định hiện hành chưa thực sự hấp dẫn họ.
Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 71 ban hành “Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư”, được coi là cơ sở pháp lý đầu tiên, tạo điều kiện cho hợp tác công – tư được thực hiện tại Việt Nam. Theo Quyết định này, các nhà đầu tư, nhà thầu tham gia dự án sẽ được ưu đãi về một số loại thuế, được quyền mua ngoại tệ, đượcbảo đảm cung cấp các dịch vụ công cộng và ưu đãi vốn vay, vốn viện trợ không hoàn lại.
Theo chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ, các quy định về hợp tác công – tư cần được xây dựng theo hướng mở và năng động, minh bạch hơn, nhất là vấn đề lợi ích giữa các bên: “Chủ yếu là mối quan hệ lợi ích công và tư như thế nào, nhà đầu tư được đảm bảo lợi ích đến mức nào khi họ tham gia hợp tác công tư, thì hành lang pháp lý hiện chưa thật rõ ràng. Và thứ hai là việc định giá của nhà đầu tư phải theo thị trường, chứ không phải theo giá áp đặt, nhất là trong lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng. Sắp tới chúng ta cần cố gắng đi vào từng lĩnh vực của chính sách để đưa ra những quy định cụ thể”.
“Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư” có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2011 và được thực hiện trong thời gian từ 3 đến 5 năm, trong khi chờ khi Chính phủ ban hành Nghị định về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư thay thế. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, cần sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hợp tác công tư ở nước ta bằng một Nghị định hoặc một đạo luật riêng, nhằm tạo môi trường pháp lý bình đẳng, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà nước, tư nhân và xã hội mới có thể thu hút hiệu quả nguồn vốn của khu vực kinh tế tư nhân trong hợp tác công – tư./.
Phi Long/VOV – Trung tâm Tin
Luật sư Hà Nội, Tư vấn đầu tư – Văn phòng luật sư Hưng Nguyên
Công ty luật Hưng Nguyên hiện đang hỗ trợ nhiều tập đoàn, quỹ đầu tư nước ngoài tìm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư với các doanh nghiệp Việt Nam và tư vấn các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm đối tác chiến lược nước ngoài để bán cổ phần, tài sản, hoặc tham gia góp vốn vào dự án mới trong nhiều ngành nghề khác nhau.
Dịch vụ của chúng tôi bao gồm:
– Chiến lược: Chúng tôi cùng khách hàng xây dựng chiến lược mua bán & sáp nhập hợp lý nhất dựa trên nhu cầu của khách hàng và phù hợp với xu hướng phát triển của ngành. Chiến lược đồng thời đề xuất các giải pháp gia tăng giá trị doanh nghiệp và khai thác được các lợi ích cộng hưởng
– Chọn lọc, tiếp xúc đối tác tiềm năng: Chúng tôi xây dựng danh sách toàn diện nhiều đối tác mua/bán tiềm năng và, đại diện khách hàng liên lạc, và thuyết phục đối tác.
– Triển khai: Chúng tôi hỗ trợ khách hàng định giá; xây dựng hồ sơ chào bán; khảo sát doanh nghiệp và đàm phán; có ý kiến về các vấn đề liên quan đến thuế, luật pháp và kế toán; thu xếp vốn cho thương vụ mua bán & sáp nhập.
Cộng hòa Liên bang Myanmar còn có tên gọi khác là Miến Điện, là một quốc gia ở Đông Nam Á, tây bắc bán đảo Trung-Ấn. Myanmar là một nước giầu tài nguyên khoáng sản, trữ lượng khí tự nhiên vào hàng thứ 13-14 trên thế giới, đất đai phì nhiêu với tổng diện tích trồng trọt khoảng 23 triệu héc ta, nông nghiệp chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu. Tiềm năng, cơ hội đầu tư tại Myanmar rất lớn, không chỉ hấp dẫn về đầu tư, Myanmar còn là nước có vị trí địa- chính trị khá quan trọng, được các nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản rất quan tâm.
Trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội Đảng IX vào tháng 4 năm 2001 đã chính thức xác định chủ trương khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, với vai trò của Nhà nước là tạo ra khuôn khổ pháp lý nhằm khuyến khích, thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để phát huy lợi thế so sánh của đất nước. Những năm vừa qua, làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ. Bên cạnh các thị trường đầu tư truyền thống như Lào, Campuchia, Nga các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã vươn ra các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Singapore, Australia, Châu Âu… Phải chăng, theo quy luật tất yếu, các thị trường đầu tư quen thuộc rồi cũng sẽ tới lúc bão hòa, và Myanmar có thể là một thị trường tiềm năng đầy hứa hẹn đang chờ đón các nhà đầu tư Việt Nam.
Về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Myanmar: Cộng hòa Liên bang Myanmar còn có tên gọi khác là Miến Điện, là một quốc gia ở Đông Nam Á, tây bắc bán đảo Trung-Ấn. Có 5.876 km đường biên giới với Trung Quốc (2.185 km), Thái Lan (1.800 km), Ấn Độ (1.463 km), Lào (235 km) và Bangladesh (193 km). Đường bờ biển dài 1.930 km. Diện tích 676.577 km², là nước lớn nhất trong lục địa Đông Nam Á, và là nước lớn thứ 40 trên thế giới (sau Zambia). Nước này hơi nhỏ hơn bang Texas Hoa Kỳ và hơi lớn hơn Afghanistan. Myanmar nằm giữa Khu Chittagong của Bangladesh và Assam, Nagaland và Manipur của Ấn Độ ở phía tây bắc. Nó có đường biên giới dài nhất với Tây Tạng và Vân Nam của Trung Quốc ở phía đông bắc với tổng chiều dài 2.185 km. Myanmar giáp biên giới với Lào và Thái Lan ở phía đông nam. Myanmar có đường bờ biển dài 1.930 km (1.199 dặm) dọc theo Vịnh Bengal và Biển Andaman ở phía tây nam và phía nam, chiếm một phần ba tổng chiều dài biên giới[30]. Thủ đô hiện nay là Nay Pyi Taw (trước đó là Yangon). Dân số khoảng 47,374,158 triệu người.
Đồng bằng Ayeyarwady, diện tích gần 50.400 km², phần lớn canh tác lúa gạo. Ở phía bắc, núi Hengduan Shan tạo nên biên giới với Trung Quốc. Hkakabo Razi, nằm tại Bang Kachin, ở độ cao 5.881 m, là điểm cao nhất Myanmar. Các dãy núi Rakhine Yoma, Bago Yoma và Cao nguyên Shan nằm bên trong Myanmar, cả ba đều chạy theo hướng bắc- nam từ dãy Hymalaya. Các dãy núi phân chia ba hệ thống sông của Myanmar, là Ayeyarwady, Thanlwin và Sittang. Sông Ayeyarwady, con sông dài nhất Myanmar, gần 2.170 km, chảy vào Vịnh Martaban. Các đồng bằng màu mỡ nằm ở các thung lũng giữa các dãy núi. Đa số dân cư Myanmar sống trong thung lũng Ayeyarwady, nằm giữa Rakhine Yoma và Cao nguyên Shan.
Đa phần diện tích Myanmar nằm giữa Hạ chí tuyến và Xích đạo. Myanmar nằm trong vùng gió mùa Châu Á, các vùng bờ biển của nó nhận lượng mưa trung bình 5.000 mm hàng năm. Lượng mưa hàng năm tại vùng đồng bằng gần 2.500 mm, trong khi lượng mưa trung bình hàng năm tại Vùng Khô, nằm ở trung tâm Myanmar, chưa tới 1.000 mm. Các vùng phía bắc đất nước có khí hậu lạnh nhất, nhiệt độ trung bình 21 °C (70 °F). Các vùng duyên hải và đồng bằng có nhiệt độ trung bình 32 °C (90 °F).
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm của Myanmar góp phần giữ gìn môi trường và các hệ sinh thái. Rừng, gồm rừng nhiệt đới với loại gỗ tếch có giá trị kinh tế cao ở vùng hạ Myanmar, bao phủ 49% diện tích đất nước. Các loại cây khác mọc ở vùng này gồm cao su, cây keo, tre, lim, đước, dừa, cọ. Trên những cao nguyên phía bắc, sồi, thông, và nhiều giống đỗ quyên khác bao phủ đa phần diện tích. Những vùng đất dọc bờ biển có nhiều cây ăn trái nhiệt đới. Tại Vùng Khô, thực vật thưa thớt và còi cọc hơn.
Các loại động vật rừng rậm tiêu biểu, đặc biệt hổ và báo có nhiều tại Myanmar. Ở vùng Thượng Myanmar, có tê giác, trâu rừng, lợn lòi, hươu, linh dương và voi nhà, sử dụng nhiều nhất trong công nghiệp khai thác gỗ. Các loài có vú nhỏ hơn cũng rất nhiều từ vượn, khỉ tới cáo bay và heo vòi. Đáng chú ý là sự đa dạng các loài chim với hơn 800 loài gồm vẹt, peafowl, gà lôi, quạ, diệc và gõ kiến (paddybird). Trong số các loài bò sát có cá sấu, tắc kè, rắn mang bành, trăn và rùa. Hàng trăm loài cá nước ngọt, rất phong phú và là nguồn thực phẩm quan trọng. Năm 2011, đất canh tác 15,3% (2% có tưới), đồng cỏ 0,5%, rừng và cây bụi 49,3%, các đất khác 34,9%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, kẽm, antimon, đồng, vonfram, chì, than, đá quý.
Về hành chính: Myanmar được chia thành 7 bang và 7 vùng hành chính. Vùng lớn nhất là Bamar, các bang khác thực chất là các vùng sinh sống của một số sắc tộc đặc biệt. Các vùng hành chính được chia nhỏ tiếp thành các thành phố, khu vực và các làng. Các thành phố lớn được chia thành các quận. Các vùng và bang của Myanmar lại được chia thành các huyện (kayaing). Bang Shan là bang có nhiều huyện nhất (11 huyện). Các bang Chin, bang Mon và bang Kayah chỉ có hai huyện mỗi bang.
Về chính trị; Ngày 22 tháng 10 năm 2010, Myanmar tuyên bố đổi quốc hiệu thành Cộng hòa Liên bang Myanmar, thay đổi quốc kỳ và quốc ca. Sự kiện này diễn ra chỉ trước 17 ngày diễn ra cuộc bầu cử sau 20 năm kể từ lần bầu cử gần nhất trước đây vào năm 1990. Sự đa dạng chủng tộc dân cư ở Myanmar đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chính trị, lịch sử và nhân khẩu học của quốc gia này thời hiện đại. Hệ thống chính trị của nước này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang, chính phủ quân sự do Thống tướng Than Shwe lãnh đạo từ năm 1992. Từng là một nước thuộc địa bên trong Đế quốc Anh cho tới tận năm 1948, Myanmar tiếp tục đấu tranh cải thiện những căng thẳng sắc tộc, và vượt qua những cuộc đảo chính. Nền văn hóa nước này bị ảnh hưởng nhiều từ các nước xung quanh, dựa trên một hình thức Phật giáo duy nhất có hòa trộn các yếu tố địa phương.
Các đại biểu được bầu ra trong cuộc bầu cử Quốc hội nhân dân năm 1990 hình thành nên Liên minh Chính phủ Quốc gia Liên bang Miến Điện (NCGUB), một chính phủ hải ngoại vào tháng 12 năm 1990, với trách nhiệm vãn hồi nền dân chủ tại Myanmar. Sein Win, người anh họ của Aung San Suu Kyi, là thủ tướng hiện thời của NCGUB. Tuy nhiên, NCGUB có rất ít quyền lực và đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật tại Myanmar. Lãnh đạo Nhà nước hiện nay là Thống tướng Than Shwe, người giữ chức vụ “Chủ tịch Hội đồng Hòa Bình và Phát triển Quốc gia”. Ông nắm mọi quyền lực quan trọng, gồm quyền bãi nhiệm các bộ trưởng và các thành viên chính phủ, đưa ra các quyết định quan trọng trong vấn đề chính trị đối ngoại. Khin Nyunt từng là thủ tướng cho tới ngày 19 tháng 10 năm 2004, và đã bị thay thế bởi Tướng Soe Win, người có quan hệ mật thiết với Than Shwe. Đa số các bộ và các vị trí chính phủ đều do các sĩ quan quân đội nắm giữ, ngoại trừ Bộ y tế, Bộ giáo dục, Bộ lao động và Bộ kinh tế và kế hoạch quốc gia, do các viên chức dân sự quản lý. Các đảng chính trị lớn ở Myanmar gồm Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ và Liên đoàn Dân tộc Shan vì Dân chủ, dù các hoạt động của họ bị chế độ quản lý chặt chẽ. Nhiều đàng khác, thường đại diện cho lợi ích của các dân tộc thiểu số thực sự có tồn tại.
Về kinh tế: Ở thời thuộc địa Anh, Miến Điện là một trong những nước giàu có nhất vùng Đông Nam Á. Đây là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và là nước cung cấp dầu khí thông qua Công ty Dầu khí Miến Điện. Miến Điện cũng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nhân lực dồi dào. Họ sản xuất 75% lượng gỗ tếch của thế giới, và dân cư có tỷ lệ biết đọc biết viết cao. Nước này từng được tin tưởng sẽ có tương lai phát triển nhanh chóng.
Năm 1989, chính phủ Myanmar bắt đầu bãi bỏ kiểm soát tập trung hóa nền kinh tế và tự do hóa một số lĩnh vực kinh tế. Các ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận như ngọc, dầu khí và lâm nghiệp vẫn bị kiểm soát chặt chẽ. Gần đây những ngành này đã được một số tập đoàn nước ngoài liên doanh cùng chính phủ tham gia khai thác. Trong một thời gian dài, Hoa Kỳ, Canada và Liên minh châu Âu đã áp đặt các lệnh cấm vận thương mại và đầu tư đối với Myanmar. Tuy nhiên, hiện nay, lệnh cấm vận này đã được bãi bỏ. Những năm gần đây, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều nỗ lực phát triển quan hệ với chính phủ nước này vì mục tiêu lợi ích kinh tế, đầu tư nước ngoài vào Myanmar chủ yếu từ Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ và Thái Lan.
Myanmar là một nước giầu tài nguyên, đất đai phì nhiêu với tổng diện tích trồng trọt khoảng 23 triệu héc ta. Nông nghiệp chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu. Từ năm 1988, Myanmar tiến hành cải cách nền kinh tế từ hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trường, ban hành luật đầu tư nước ngoài, cho phép thành lập lại các doanh nghiệp tư nhân. Tăng trưởng GDP từ 1989 đến 1996 lần lượt được cải thiện. Trong 5 năm (1996-2001), GDP của Myanmarphát triển trung bình 6%/năm. Chính phủ đưa ra kế hoạch phát triển kinh tế 10 năm từ 2001-2011 với mức tăng trưởng GDP trung bình là 7,2%/năm. Tăng trưởng kinh tế năm 2004-2005 đạt 4%, giai đoạn 2009- 2011 đạt khoảng 5,5%. Đầu tư nước ngoài hiện có 374 dự án từ 25 nước và lãnh thổ, trong đó đầu tư từ các nước ASEAN là 3,844 tỷ USD chiếm 51,64%. Tổng kim ngạch thương mại chính ngạch giữa Myanmar với các nước năm 2005-2006 đạt khoảng 5,5 tỷ USD, tuy nhiên, đến giai năm 2011 đã tăng vọt, đạt mức 15,041 tỷ USD.
Về điều kiện xã hội: Tiếng Myanmar, tiếng mẹ đẻ của người Bamar và là ngôn ngữ chính thức của Myanmar, về mặt ngôn ngữ học có liên quan tới tiếng Tây Tạng và tiếng Trung Quốc. Nó được viết bằng ký tự gồm các chữ hình tròn và nửa hình tròn, có nguồn gốc từ ký tự Mon. Bảng chữ cái này được phỏng theo ký tự Mon, ký tự Mon được phát triển từ ký tự nam Ấn Độ trong thập niên 700. Những văn bản sớm nhất sử dụng ký tự được biết tới từ thập niên 1000. Ký tự này cũng được sử dụng để viết chữ Pali, ngôn ngữ thiêng liêng của Phật giáo Tiểu thừa. Ký tự Miến Điện cũng được dùng để viết nhiều ngôn ngữ thiểu số khác, gồm Shan, nhiều thổ ngữ Karen và Kayah (Karenni); ngoài ra mỗi ngôn ngữ còn có thêm nhiều ký tự và dấu phụ đặc biệt khác. Tiếng Mayanma sử dụng nhiều từ thể hiện sự kính trọng và phân biệt tuổi tác. Xã hội Myanmar truyền thống rất nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục. Bên trong các ngôi làng, giáo dục do các giáo sĩ truyền dạy thường diễn ra trong các ngôi chùa. Giáo dục trung học và giáo dục cao đẳng/đại học thuộc các trường của chính phủ. Phật giáo được xem là quốc giáo chiếm 89,3% dân số, đạo Cơ đốc 4,9%, Hồi giáo 3,8%.
Mối quan hệ Việt Nam và Myanmar: Myanmar thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với Việt Nam từ ngày 25 tháng 5 năm 1975. Myanmar là một trong số ít nước Việt Nam có quan hệ rất sớm. Chỉ hai năm sau khi Việt Nam giành được độc lập, năm 1947, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã mở Văn phòng Đại diện của mình ở Thủ đô Rangoon (nay là Nay Pyi). Văn phòng Đại diện lúc đó được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ đặc biệt là mua sắm vũ khí và vận chuyển vũ khí, đạn dược về trong nước để phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tháng 11/1954, Thủ tướng U Nu thăm chính thức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tháng 12/1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức Miến Điện. Tháng 12/1957, hai nước thiết lập cơ quan Tổng Lãnh sự và đến tháng 5/1975 thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ, Cơ quan Tổng Lãnh sự trở thành Đại sứ quán đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Miến Điện. Từ đó đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước không ngừng phát triển vì lợi ích của nhân dân Việt Nam và Myanmar, vì hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực Đông Nam Á.
Tháng 5/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Myanmar, tháng 3/1995 Thống tướng Than Shwe thăm Việt Nam. Tháng 5/1997, Tổng bí thư Đỗ Mười thăm Myanmar, tháng 12/1998, Thống thướng Than Shwe dự Hội nghị cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội. Tháng 5/2000, Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Myanmar, tháng 5/2002, Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm chính thức Myanmar và tháng 3/2003, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Myanmar vào tháng 8/2007, Thống tướng Than Shwe thăm chính thức Việt Nam. Qua các chuyến thăm, Lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước đã đặt nền móng vững chắc cho quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc.
Là hai nước thành viên của ASEAN, Việt Nam và Myanmar đã phối hợp và hợp tác với nhau để giữ vững các nguyên tắc của Hiệp hội, tăng cường đoàn kết và nêu cao vai trò đầu tàu của ASEAN trong các thể chế khu vực. Hai nước đang nỗ lực để triển khai các dự án kinh tế và phát triển trong khuôn khổ tiểu vùng như ACMECS, GMS, CLMV.., nhằm giúp các nước trong khu vực tiểu vùng phát triển kinh tế của mình và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN. Đến nay, có thể nói cánh cửa đã mở toang đón luồng gió mới đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới.
Về kết quả hoạt động thương mại, đầu tư song phương:
Quan hệ thương mại Việt Nam – Myanmar kể từ Phiên họp 5 (năm 2009) đến nay đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Sau 3 năm, kim ngạch 2 chiều tăng trưởng gần 170% (từ 99 triê%3ḅu USD năm 2009 lên 167,2 triê%3ḅu USD năm 2011), trong đó kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Myanmar là 84,8 triê%3ḅu USD; kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Myanmar là 82,4 triê%3ḅu USD. Tiềm năng thương mại giữa hai nước là rất lớn trong nhiều lĩnh vực như: nông – lâm nghiệp, dệt may, điện tử, viễn thông, thiết bị điện, y tế – dược phẩm, hàng tiêu dùng. Mục tiêu tăng kim ngạch thương mại song phương từ 167 triệu USD vào năm 2011 lên 500 triệu USD trong thời gian từ nay tới năm 2015.
Về đầu tư song phương, tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam hiện có 5 dự án đầu tư sang Myanmar với tổng vốn đầu tư đạt 20,315 triệu USD, quy mô vốn bình quân 1 dự án là 4,05 triệu USD/dự án. Trong đó, dự án về dầu khí tại vùng biển Tây Nam của Myanmar do Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên (PVEP) liên doanh cùng Eden Group Co., Ltd của Myanmar thực hiện, tổng vốn đăng ký ban đầu là 5,6 triệu USD; Dự án khai thác đá trắng của Công ty Simco Sông Đà, với tổng vốn đầu tư 10 triệu USD. Đây là 02 dự án được phía Myanmar cấp phép chính thức. Ngoài các dự án nêu trên, doanh nghiệp Việt Nam còn một số dự án đang trong giai đoạn nghiên cứu triển khai như: dự án mở đường bay quốc tế và nội địa của Tổng công ty Hàng không Việt Nam (VietnamAirline), dự án mở ngân hàng tại Myanmar của Ngân hàng Đầu tư và phát triển (BIDV), dự án đầu tư mạng viễn thông của Tổng công ty viễn thông quân đội (Viettel).
Đánh giá tiềm năng, cơ hội cho nhà đầu tư Việt Nam: mặc dù kết quả hoạt động thương mại, đầu tư song phương đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng quan hệ kinh tế còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có cũng như mong muốn của Chính phủ và nhân dân hai nước. Qua phân tích tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Myanmar, có thể thấy, tiềm năng đầu tư tại Myanmar là rất lớn. Myanmar là quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản, trữ lượng khí tự nhiên vào hàng thứ 13-14 trên thế giới, là nước có vị trí địa-chính trị khá quan trọng, được các nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản rất quan tâm. Hơn nữa, Việt Nam và Myanmar vốn có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ trong nhiều lĩnh vực. Chính phủ hai nước đặc biệt chú trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư thương mại song phương qua việc đàm phán ký kết nhiều hiệp định hợp tác, biên bản ghi nhớ quan trọng để tạo khung khổ hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tìm hiểu cơ hội hợp tác đầu tư kinh doanh. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc khuyến khích cũng như bảo hộ cho các nhà đầu tư Việt Nam khi tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh tại Myanmar. Có thể điểm qua một số hiệp định quan trọng đã được ký kết sau đây:
– Hiệp định thành lập Ủy ban hỗn hợp về hợp tác song phương giữa hai nước (5/1994);
– Hiệp định Thương mại (5/1994);
– Hiệp định Hợp tác Du lịch (5/1994);
– MOU về Chương trình Hợp tác 6 năm (1994-2000) giữa hai bộ Nông nghiệp (8/1994);
– MOU về Hợp tác Phòng chống ma tuý (3/1995);
– MOU về Hợp tác trong lĩnh vực Lâm nghiệp (3/1995);
– Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần (5/2000);
– Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư (5/2000);
– Hiệp định hợp tác Văn hoá (5/2000);
– MOU về Hợp tác giữa UBDT và Miền núi Việt Nam và Bộ Biên giới, Dân tộc và Phát triển Myanmar (7/2000);
– MOU thành lập Uỷ ban Hợp tác chung về Thương mại (5/2002);
– MOU về Hợp tác giữa hai Phòng Thương mại và Công nghiệp (5/2002);
– MOU về xúc tiến đầu tư do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Bộ Kế hoạch và Phát triển kinh tế quốc gia Myanmar ký kết (4/2010).
Chính phủ hai nước sẽ tiếp tục đẩy nhanh hơn nữa việc hoàn thiện thể chế và cải cách các thủ tục hành chính để tạo môi trường thông thoáng, minh bạch, thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp của Myanmar; đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư và kinh doanh ở Myanmar.Như vậy, có thể thấy, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi khi xâm nhập vào thị trường Myanmar do hai nước có mối quan hệ chính trị tốt đẹp và Myanmar đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế định hướng thị trường, có chính sách khuyến khích khu vực tư nhân phát triển ngoại thương và hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Dù thu nhập bình quân đầu người của người dân Myanmar không cao, nhưng với dân số gần 65 triệu dân, sản xuất trong nước còn hạn chế nên nhu tiêu dùng và sức mua rất lớn. Trong đó, có rất nhiều sản phẩm mà Myanmar có nhu cầu lớn và có thể đầu tư hiệu quả như khai thác khoáng sản, lâm sản, chế biến nông, lâm, thủy sản, chế biến thức ăn gia súc, thức ăn thủy sản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản, đóng tàu, viễn thông, du lịch, các nhà hàng phục vụ món ăn Việt Nam, thủy sản, nhiệt điện… Vì vậy, đây là cơ hội khả quan cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, từ đầu tháng 5/2010, Myanmar là nước duy nhất cấp visa ngay tại cửa khẩu cho công dân từ các nước đến Myanmar. Cụ thể, khách du lịch được cấp phép lưu trú 28 ngày, (không gia hạn), doanh nghiệp được lưu trú 70 ngày (được gia hạn thêm), công vụ 28 ngày (được gia hạn). Đặc biệt, ngoài 4 sân bay nội địa, 2 đường bay quốc tế từ Việt Nam, BangKok, tháng 8 này Myanmar sẽ có thêm đường bay trực tiếp từ Malaysia đến Yangon. 98% người dân theo đạo Phật nên con người ở đây thật thà hiền lành và rất thân thiện, thị trường mới mẻ, yếu tố cạnh tranh không nhiều, tiềm năng kinh tế lớn, tài nguyên thiên nhiêu nhiều nhưng chưa khai thác rộng rãi, mức sống của người dân thấp, người dân hiền hòa… Đặc biệt, doanh nghiệp VN có thể đầu tư vào nhiều lĩnh vực được Chính phủ Myanmar rất khuyến khích, bao gồm:
– Thiết bị và dịch vụ viễn thông;
– Sản xuất máy nông nghiệp;
– Chế biến sản phẩm nông nghiệp, nuôi trồng và chế biến cá nước ngọt;
– Sản xuất sản phẩm nhựa, vật liệu xây dựng như xi măng, thiết bị phòng tắm và gạch ngói.
– Thăm dò và khái thác dầu khí, khoáng sản.
Như vậy, có thể thấy, quan hệ chính trị tốt đẹp, tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước; tiềm năng dồi dào về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Myanmar là những điều kiện thuận lợi mà các doanh nghiệp Việt Nam cần tranh thủ khai thác. Tuy nhiên, để định hướng và thúc đẩy hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang Myanmar, Chính phủ Việt Nam cũng cần tạo điều kiện hơn nữa cho cộng đồng doanh nghiệp hai nước cơ hội trao đổi, tiếp xúc nhằm thúc đẩy quá trình giao thương và đầu tư như tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư ra nước ngoài để doanh nghiệp Việt Nam hiểu hơn về đất nước Myanmar, nhất là những thuận lợi cũng như cơ hội mới khi đầu tư sang thị trường này; tăng cường trao đổi thông tin, tổ chức các hội thảo về đầu tư, phối hợp giải quyết các vướng mắc từ khâu triển khai nghiên cứu thị trường đầu tư cho đến khi cấp phép thực hiện dự án; xây dựng một số chính sách ưu đãi đầu tư đặc thù cho doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mà Myanmar đặc biệt khuyến khích. Với việc hỗ trợ thiết thực của Chính phủ hai nước và sự năng động của các doanh nghiệp Việt Nam, dự báo trong thời gian tới đây, Myanmar sẽ đón nhận một làn sóng đầu tư mạnh mẽ của các nhà đầu tư Việt Nam.
Luật sư Hà Nội – Sẽ có một nghị định về đầu tư theo hình thức công – tư (PPP), được xây dựng dựa trên việc hợp nhất, sửa đổi Nghị định 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức BOT, BT, BTO và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về thí điểm đầu tư theo hình thức PPP.
“Bên cạnh thực tiễn triển khai thí điểm những dự án PPP cụ thể, khung pháp lý hoàn thiện sẽ được xây dựng dựa trên các thông lệ quốc tế và đáp ứng tốt nhất các kỳ vọng của nhà đầu tư nước ngoài về một môi trường đầu tư tại Việt Nam cạnh tranh, công bằng và minh bạch.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ông Bùi Quang Vinh
Như vậy sẽ tạo được tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư tư nhân khi tham gia những dự án PPP dài hạn, có thời gian từ 20 – 30 năm tại Việt Nam”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết.
Nội dung của Dự thảo Nghị định vẫn đang trong quá trình xây dựng, song theo Ban Soạn thảo, một trong những vấn đề cần đặc biệt quan tâm là trách nhiệm lập và phê duyệt danh mục các dự án. Lý do là có sự “vênh” nhau giữa Nghị định 108/2009/NĐ-CP và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg.
“Trong khi Nghị định 108/2009/NĐ-CP đã phân cấp trách nhiệm xây dựng và phê duyệt Danh mục dự án BT, BOT, BTO cho các bộ, ngành, địa phương, thì Quyết định 71/2010/QĐ-TTg quy định, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thẩm định đề xuất dự án và trình Thủ tướng Chính phủ đưa dự án vào Danh mục dự án”, ông ông Trần Hào Hùng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nói.
Ông Hùng cũng cho biết, để đảm bảo hài hòa thủ tục lập và phê duyệt danh mục dự án, Ban Soạn thảo đề xuất quy định nội dung này theo hướng tiếp tục phân cấp thẩm quyền lập, phê duyệt danh mục dự án, nhưng bổ sung quy định về thẩm quyền của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính có ý kiến đối với dự án có sử dụng nguồn vốn ngân sách trung ương hoặc có đề xuất bảo lãnh Chính phủ.
Cũng liên quan vấn đề này, một trong những quy định khá thống nhất trong Nghị định 108/2009/NĐ-CP, Quyết định 71/2010/QĐ-TTg, là cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm lập báo cáo nghiên cứu khả thi dự án.
Tuy nhiên, theo ông Hùng, quy định như vậy dù đảm bảo sự chủ động của cơ quan nhà nước trong đàm phán, thực hiện hợp đồng dự án, hạn chế tình trạng nhà đầu tư đưa ra các đề xuất không phù hợp mục tiêu dự án, hoặc tính toán, xác định giá trị công trình không phù hợp thực tế, song lại cứng nhắc, không phù hợp với khả năng bố trí ngân sách nhà nước để lập dự án và không tranh thủ được nguồn lực, kinh nghiệm của nhà đầu tư.
“Vì thế, chúng tôi đề xuất bổ sung cơ chế nhà đầu tư lập báo cáo nghiên cứu khả thi trên cơ sở đề xuất dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Điều này nhằm tạo sự chủ động, linh hoạt trong việc chuẩn bị dự án, đồng thời giảm gánh nặng về tài chính và thời gian lập dự án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, ông Hùng cho biết.
Quy định như vậy, song Bộ trưởng Bùi Quang Vinh khẳng định, điều quan trọng là phải quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thẩm định. “Phải có chế tài chặt chẽ để quy định, ràng buộc trách nhiệm của cơ quan thẩm định. Nếu làm sai, họ phải chịu trách nhiệm”, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh nói.
Theo thông tin từ Ban Soạn thảo, còn có một số vấn đề cần xem xét để “hài hòa hóa” các quy định đã được ban hành trong hai văn bản quy phạm pháp luật nói trên. Chẳng hạn, quy định về sự tham gia của Nhà nước như thế nào, bởi nếu để doanh nghiệp nhà nước tham gia thì không phù hợp với mục tiêu của hình thức PPP là thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài.
Những khúc mắc khác liên quan đến lựa chọn nhà đầu tư và thủ tục cấp chứng nhận đầu tư. Hiện nay, theo quy định của Nghị định 108/2009/NĐ-CP, việc cấp chứng nhận đầu tư được phân cấp về cơ bản cho UBND các địa phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ cấp chứng nhận đầu tư cho các dự án quan trọng quốc gia, các dự án liên tỉnh, liên vùng… Trong khi đó, theo Quyết định 71/2010/QĐ-TTg, quyền cấp phép thuộc về Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Theo dự kiến, Dự thảo Nghị định sẽ quy định nội dung này theo hướng vẫn phân cấp đầu tư, trừ các dự án quan trọng cấp quốc gia, dự án thực hiện trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố…
“Quan điểm chung là làm sao các quy định thật minh bạch, theo thông lệ quốc tế, hạn chế các tồn tại của Nghị định 108/2009/NĐ-CP và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg. Chẳng hạn, có chế tài để hạn chế tình trạng dự án theo hình thức BT, nhưng lại sử dụng vốn trái phiếu chính phủ để phát triển; hay dự án BOT, nhà đầu tư không triển khai được lại trả lại cho Nhà nước”, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh nói và một lần nữa khẳng định, mọi quy định pháp luật sẽ được xây dựng theo hướng tạo điều kiện để khu vực tư nhân đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng.
Công ty luật Hà Nội tư vấn luật lĩnh vực đầu tư cho cách doanh nghiệp Việt Nam
Đầu tư sang Campuchia và Lào
Theo công bố của Bộ Kế hoạch – đầu tư VN tại hội nghị, số lượng giấy phép đầu tư VN sang Campuchia đã tăng mạnh từ 56 dự án năm 2009 lên 112 dự án sáu tháng đầu năm nay, với tổng vốn đầu tư lên đến 2,36 tỉ USD.
Campuchia hiện đứng thứ hai trong tổng số 60 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp VN, chủ yếu ở các lĩnh vực nông – lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp, viễn thông, hàng không, ngân hàng, khoáng sản… Hiện các dự án của doanh nghiệp VN tại Campuchia đã tạo việc làm ổn định cho hàng vạn lao động nước này.
Sau 3 năm xúc tiến đầu tư vào Campuchia, hoạt động đầu tư, thương mại và du lịch giữa hai nước đã đạt được những kết quả lớn. Năm 2011, Việt Nam có 90 dự án đầu tư tại Campuchia với số vốn đầu tư gần 2 tỷ USD. Năm 2012, mặc dù, chịu tác động từ những khó khăn chung của kinh tế thế giới, số dự án đầu tư của Việt Nam tiếp tục tăng đưa tổng số dự án đầu tư lên 124 với tổng vốn đầu tư đạt 2,5 tỷ USD, gấp 4,4 lần so với năm 2009, thuộc top 5 nhà đầu tư lớn nhất tại nước bạn.
Về thương mại, năm 2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Campuchia ước đạt 3,3 tỷ USD, tăng 17,8% so với năm 2011. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Campuchia sang Việt Nam đạt 420 triệu USD (tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2011), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia đạt 2,52 tỷ USD (tăng 17,7% so với cùng kỳ năm 2011), giữ vị trí số hai trong số hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Campuchia.
Hoạt động du lịch cũng đạt được những tín hiệu tích cực. Năm 2011, lượng khách du lịch Việt Nam sang Campuchia là 600.000 lượt người, tăng 34% so với năm 2010. Trong 10 tháng đầu năm 2012, có 638.000 lượt khách du lịch Việt Nam đến Campuchia (tăng 24% so với cùng kỳ và lớn hơn 6,3% so với cả năm 2011, chiếm 22,3% lượng khách du lịch quốc tế đến Campuchia). Dự báo năm 2012 sẽ đạt trên 750.000 lượt khách, tăng 25% so với năm 2011. Việt Nam tiếp tục đứng thứ nhất về lượng khách du lịch đến Campuchia.
Doanh nghiệp Việt triển khai các dự án đúng tiến độ cam kết, trong 3 năm đã đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của Campuchia khoảng 5% GDP, đóng góp vào thu ngân sách Campuchia hàng trăm triệu USD và tạo việc làm cho trên 3 vạn lao động, tăng lượng khách du lịch của Campuchia (bình quân 36% một năm).
Công tác an sinh xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia cũng được thực hiện liên tục, hiệu quả. AVIC với vai trò đầu mối đã kêu gọi, vận động, phối hợp với hội viên tổ chức, tham gia nhiều chương trình an sinh xã hội thiết thực với tổng số tiền đạt khoảng 30 triệu USD. Một số dự án điển hình như xây dựng trường học khu vực biển Hồ, xây dựng trường học cấp 3 Om bachok, trường đào tạo nghề cho học viên nữ, trường mầm non cho Thủ đô PhnomPenh, hỗ trợ nguồn kinh phí cho Hội chữ thập đỏ Campuchia…
Luật sư tư vấn – Văn phòng luật sư Hà Nội – Công ty luật Hưng Nguyên cung cấp thông tin thêm về dịch vụ của ngân hàng Sacombank
Sacombank nhận chuyển vốn đầu tư sang Lào và Campuchia với mức phí ưu đãi
Có nhiều hình thức chuyển tiền phù hợp với các mục đích, nhu cầu đa dạng của quý khách hàng
Được tư vấn dịch vụ miễn phí
Thủ tục đơn giản
Tiết kiệm chi phí, thời gian
Đầu tư sang Lào – Campuchia cần lưu ý điều gì?
Thông báo cho biết, mới đây, Chính phủ Lào và Campuchia đã điều chỉnh một số chính sách đầu tư nước ngoài mới, đặc biệt các chính sách đất đai cho dự án. Các quy định mới này sẽ có tác động nhất định tới các dự án của nhà đầu tư Việt Nam.
Cụ thể, ngày 11/6/2012, Thủ tướng Chính phủ Lào đã ban hành Chỉ thị số 13 về việc dừng xem xét và cấp phép dự án đầu tư mới vào lĩnh vực tìm kiếm và khảo sát khoáng sản, dự án trồng cao su và bạch đàn trong toàn quốc để nhằm kiểm tra, đánh giá lại việc tổ chức thực hiện và thúc đẩy các dự án đã được Chính phủ cấp phép, nghiêm chỉnh tiến hành các bước theo quy định của pháp luật và hợp đồng.
Trong khi đó, ngày 7/5/2010, Thủ tướng Campuchia đã ban hành Sắc lệnh số 01 về việc Chính phủ Campuchia sẽ tạm dừng việc giao đất trồng cao su, khẳng định không giao đất thêm cho các dự án mới đến ngày 21/12/2015. Ngày 4/9/2012, cơ quan chức năng của Campuchia cũng ra thông báo tạm ngưng việc khai thác gỗ tại tất cả các khu vực đất tô nhượng kinh tế có diện tích rừng già hoặc khu vực bảo tồn và khu vực rừng giữ lại, ngoại trừ trường hợp có quyết định của Chính phủ nước này.
Các chính sách mới nêu trên của Chính phủ Lào, Campuchia có thể ảnh hưởng trực tiếp tới các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam, mới đây, ngày 03 tháng 8 năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức buổi họp với các doanh nghiệp Việt Nam để quán triệt một số nội dung liên quan đến chính sách mới của Lào và Campuchia trong lĩnh vực trồng cây công nghiệp và khoáng sản. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư đồng thời phòng tránh những rủi ro pháp lý cho dự án thì rất cần sự chủ động, tích cực từ phía các doanh nhiệp Việt Nam đối với các nội dung sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam triển khai thực hiện dự án phải theo đúng tiến độ, mục tiêu quy định trong Giấy CNĐTRNN do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cấp; các nội dung quy định trong các văn bản pháp lý, các Giấy phép được chính quyền nước sở tại cấp cho nhà đầu tư; phải tuân thủ chặt chẽ luật pháp của Việt Nam và luật pháp nước sở tại;
Thứ hai, đối với các dự án trồng cây công nghiệp, trong bối cảnh phía Lào, Campuchia đang hạn chế việc giao đất, nhà đầu tư Việt Nam cần chủ động rà soát và nghiên cứu kỹ lưỡng các thủ tục giao đất theo quy định của nước sở tại để đảm bảo tính pháp lý chặt chẽ của dự án;
Thứ ba, nhà đầu tư Việt Nam cần lưu ý việc tập hợp và lưu lại các chứng từ liên quan đến các hoạt động chi phí vật tư, hàng hóa, nguyên liệu đưa từ Việt Nam sang Campuchia phục vụ cho dự án để bảo đảm quyền lợi của mình;
Thứ tư, Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Lào, Campuchia cần phát huy vai trò hỗ trợ nhà đầu tư Việt Nam trong việc triển khai thực hiện dự án đầu tư, kịp thời nắm bắt các vướng mắc liên quan đến dự án và có kiến nghị với các cơ quan chức năng của Lào, Campuchia và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư Việt Nam;
Thứ năm, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam cần tiến hành rà soát tất cả các dự án đầu tư trong lĩnh vực trồng cây cao su và cây công nghiệp đã được Bộ Nông, lâm, ngư nghiệp Campuchia ký hợp đồng với các doanh nghiệp Việt Nam, đảm bảo thực hiện Thỏa thuận ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Campuchia, với Chính phủ Lào về Hợp tác đầu tư trồng mới 100.000 ha cao su;
Thứ sáu, trong quá trình triển khai thực hiện dự án, trường hợp gặp khó khăn vướng mắc, doanh nghiệp cần kịp thời báo cáo tới các Bộ, ngành để có phương án tháo gỡ, hỗ trợ cho doanh nghiệp.
Chính sách thuế và thuế suất
Chính phủ Campuchia đã loại bỏ hầu hết các rào cản phi thuế quan và các giấy phép nhập khẩu.
Thuế hải quan:
Về nguyên tắc, tất cả các hàng hóa nhập hay xuất đi từ Campuchia đều phải chịu các loại thuế xuất nhập khẩu theo quy định của Tổng cục Hải quan và chịu thuế tiêu thụ.
Thuế nhập khẩu:
Thuế nhập khẩu được thu tại bất cứ điểm vào hay ra của tất cả hàng hóa qua biên giới, trừ những hàng hóa đặc biệt được miễn thuế hải quan theo luật hay hàng hóa của các cơ quan đặc biệt.
Thuế giữ lại cổ tức được tính đối với các cổ tức phát cho cổ đông trong nước và nước ngoài với tỷ lệ tương đương mức thuế lợi nhuận của doanh nghiệp.
Thuế xuất khẩu:
Hiện Campuchia không đánh thuế xuất khẩu, chỉ trừ loại thuế đánh vào các sản phẩm xuất khẩu hạn chế như gỗ, gỗ xẻ, gỗ cây, kim loại và đá quý hiếm, hải sản và đồ cổ.
Hồ sơ nhập và xuất khẩu
Hải quan Campuchia yêu cầu người nhập khẩu và xuất khẩu phải xuất trình vận đơn và hóa đơn cho tất cả các chuyến hàng. Hàng hóa được vận tải bằng tàu qua Việt Nam đi bằng đường sông Mekong cũng phải có giấy phép quá cảnh.
Các yêu cầu về nhãn mác
Hiện Campuchia không có yêu cầu nào về nhãn mác.
Tiêu chuẩn
CAMCONTROL là đơn vị thuộc Bộ Thương mại phụ trách việc đề ra các tiêu chuẩn. CAMCONTROL cấp các giấy tờ và chứng nhận các sản phẩm xuất khẩu và xác nhận về chất lượng của các sản phẩm dịch vụ.
Thủ tục thành lập công ty tại Campuchia
Các thủ tục, giấy tờ xin mở công ty, chi nhánh, văn phòng đại diện công ty Việt Nam tại Campuchia:
A. Các giấy tờ cần thiết xin thành lập công ty Việt Nam tại Campuchia:
1. Đơn xin thành lập công ty tại Campuchia (theo mẫu của Bộ Thương mại Campuchia);
2. Hợp đồng thuê nhà tại Campuchia (tiếng Khmer hoặc tiếng Anh);
3. Giấy chứng nhận mở tài khoản ngân hàng tại Campuchia;
4. Photo hộ chiếu có visa và 03 ảnh chụp 4×6 của người đứng tên giám đốc công ty
5. Đơn xin đăng ký tên công ty vào danh sách các công ty tại Bộ Thương mại Campuchia (theo mẫu của Bộ Thương mại Campuchia);
6. Nộp lệ phí xin mở công ty theo quy định của Bộ Thương mại Campuchia;
7. Đơn khẳng định không phải là công chức nhà nước, không phạm tội (theo mẫu). Thời gian nhận kết quả khoảng 5 ngày làm việc, hồ sơ xin thành lập công ty nộp tại Bộ Thương mại Campuchia, Cục Đăng ký thương mại.
B. Các giấy tờ cần thiết xin thành lập chi nhánh công ty, văn phòng đại diện công ty Việt Nam tại Campuchia:
1. Đơn xin thành lập chi nhánh văn phòng đại diện công ty tại Campuchia (theo mẫu của Bộ Thương mại Campuchia);
2. Hợp đồng thuê nhà tại Campuchia (tiếng Khmer hoặc tiếng Anh);
3. Dịch công chứng ra tiếng Anh toàn bộ giấy tờ của công ty gốc tại Việt Nam, bao gồm: Điều lệ công ty,Giấy thành lập công ty, Chứng nhận ngành nghề đăng ký kinh doanh…
4. Photo hộ chiếu có visa và 03 ảnh chụp 4×6 của người đứng tên làm trưởng chi nhánh hoặc văn phòng đại diện công ty vào danh sách các công ty tại Bộ Thương mại Campuchia.
5. Nộp lệ phí xin mở chi nhánh, văn phòng đại diện công ty theo quy định của Bộ Thương mại Campuchia. Thời gian nhận kết quả khoảng 05 ngày làm việc, hồ sơ xin thành lập chi nhánh hoặc văn phòng đại diện Công ty nộp tại Bộ Thương mại Campuchia, Cục Đăng ký thương mại.
Đầu tư ra nước ngoài, một trong những phương pháp kinh doanh hiệu quả và lợi nhuận, tuy nhiên cũng có những khó khăn riêng. Để tiến hành đầu tư ra nước ngoài nhà đầu tư phải thực hiện một số thủ tục pháp lý để được Bộ Kế hoặc và Đầu tư chấp thuận cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Nhà đầu tư cũng cần quan tâm đến một số thông tin như điều kiện đầu tư ra nước ngoài như thế nào? Hồ sơ ra sao? Triển khai như thế nào? Dưới đây là một số vấn đề liên quan đến điều kiện, hồ sơ, trình tự thủ tục đầu tư ra nước ngoài, triển khai dự án đầu tư ở nước ngoài mà Công ty Luật Hưng Nguyên hỗ trợ nhà đầu tư. Với nhiều kinh nghiệm trong việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, hỗ trợ nhà đầu tư xin cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư ra nước ngoài đến các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia…. Cụ thể như sau:
Điều kiện đầu tư ra nước ngoài:
Đầu tư nước ngoài theo hình thức đầu tư trực tiếp, doanh nghiệp cần chuẩn bị những nội dung sau:
Có dự án đầu tư ra nước ngoài;
Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước Việt Nam;
Được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Hồ sơ dự án đầu tư bao gồm:
Văn bản đăng ký dự án đầu tư.
Bản sao có công chứng của: Giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc quyết định thành lập hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương đối với nhà đầu tư là tổ chức; hoặc Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu đối với nhà đầu tư là cá nhân Việt Nam; hoặc Giấy phép đầu tư đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cấp Giấy phép đầu tư trước ngày 01 tháng 7 năm 2006 nhưng không đăng ký lại theo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp.
Hợp đồng hoặc văn bản thỏa thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ phần hoặc hợp tác đầu tư đối với dự án đầu tư có đối tác khác cùng tham gia đầu tư.
Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng cổ đông hoặc đại hội xã viên về việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với trường hợp nhà đầu tư là Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty hợp danh hoặc Công ty cổ phần hoặc hợp tác xã trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, hợp tác xã.
Văn bản giải trình về dự án đầu tư về: mục tiêu, địa điểm, quy mô, nguồn vốn đầu tư, việc sử dụng lao động VIệt Nam, nguyên liệu từ Việt Nam (nếu có), tiến độ thực hiện dự án đầu tư… (áp dụng đói với trường hợp thẩm tra dự án đầu tư- quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên)
Số lượng hồ sơ:
Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn dưới 15 tỷ đồng Việt Nam: Nhà đầu tư nộp cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư 03 bộ hồ sơ dự án đầu tư, trong đó có 01 bộ hồ sơ gốc.
Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên (thẩm tra dự án đầu tư): Nhà đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư 08 bộ hồ sơ , trong đó có 01 bộ hồ sơ gốc.
Triển khai dự án đầu tư:
Thông báo thực hiện dự án đầu tư: trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày được chấp thuận theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải có văn bản thông báo thực hiện dự án đầu tư kèm theo bản sao văn bản chấp nhận dự án đầu tư hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Ngoại giao, Bộ quản lý ngành kinh tế – kỹ thuật, Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi nhà đầu tư đặt trụ sở chính.
Thời hạn triển khai dự án đầu tư: Quá thời hạn 12 tháng, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đầu tư mà dự án đầu tư không được nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận, hoặc quá thời hạn 06 tháng, kể từ ngày dự án đầu tư được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận mà dự án đầu tư không được triển khai thì nhà đầu tư phải có văn bản nêu rõ lý do và đề nghị kéo dài thời hạn triển khai dự án đầu tư hoặc đề nghị chấm dứt dự án đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư: Hàng năm, trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư có văn bản báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư kèm theo báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ quản lý ngành kinh tế – kỹ thuật và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi nhà đầu tư đặt trụ sở chính.
Tài khoản thực hiện dự án đầu tư: Mọi giao dịch chuyển ngoại tệ từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam liên quan đến dự án đầu tư được thực hiện thông qua một tài khoản ngoại tệ mở tại một tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối tại Việt Nam và được đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt NamTài khoản thực hiên dự án đầu tư:
Chấm dứt hiệu lực Giấy chứng nhận đầu tư:
Giấy chứng nhận đầu tư chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau:
Hết thời hạn quy định ghi tại Giấy chứng nhận đầu tư hoặc hết thời hạn đầu tư theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
Quá thời hạn triển khai dự án đầu tư nêu trên mà dự án đầu tư không được triển khai.
Tổ chức kinh tế ở nước ngoài bị giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
Nhà đầu tư bị phá sản hoặc giải thể dẫn tới việc phải giải thể tổ chức kinh tế ở nước ngoài hoặc phải chuyển nhượng toàn bộ vốn đầu tư ở nước ngoài cho tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Quá 12 tháng, kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư mà nhà đầu tư không có văn bản báo cáo về tình hình hoạt động của dự án đầu tư nêu trên.
Nhà đầu tư vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước tiếp nhận đầu tư dẫn tới việc phải chấm dứt hiệu lực Giấy chứng nhận đầu tư.
Nhà đầu tư có văn bản đề nghị chấm dứt dự án tư vấn đầu tư và được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chấp thuận.
Quý khách có nhu cầu tư vấn, hỗ trợ các thủ tục pháp lý về đầu tư ra nước ngoài xin vui lòng liên hệ:
Công ty Luật Hưng Nguyên
Địa chỉ: Lô 6, B 20 khu đô thị Định Công, phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Văn phòng 2: Số 14, đường Trung Yên 3, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
Công ty luật Hà Nội – Hội nghị Xúc tiến đầu tư vào các tỉnh Trung và Nam Lào do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam phối hợp tổ chức diễn ra vào ngày 10/2 tại tỉnh Champasak (Lào).
Đại diện Chính phủ hai nước sẽ tham gia hội nghị và dự lễ khởi công xây dựng sân bay quốc tế với vốn đầu tư 30 triệu USD tại tỉnh Attapeu, một tỉnh nghèo nhất của Lào. Dự án do Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai hỗ trợ đầu tư bằng việc cung cấp vốn vay.
Dự kiến, khi sân bay đi vào hoạt động sẽ là đòn bẩy quan trọng giúp Attapeu thu hút đầu tư nước ngoài. Cùng với đó, giao thông từ Việt Nam qua Attapeu sẽ thuận lợi hơn khi chỉ mất 1 giờ bay từ TP.HCM tới Attapeu.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, đến nay, Việt Nam có 206 dự án đầu tư sang Lào còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký trên 3,3 tỷ USD. Trong đó, đầu tư vào các tỉnh Nam Lào chiếm đến 55% tổng vốn đầu tư. Đến nay, vốn thực hiện đạt khoảng 500 triệu USD, doanh thu lũy kế của các doanh nghiệp Việt Nam đạt 216,9 triệu USD.
Lào đứng thứ nhất trong tổng số 55 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam. Việt Nam hiện đứng thứ 3 trong số 52 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Lào. Năm 2011, Việt Nam có 15 dự án đầu tư được cấp giấy chứng nhận đầu tư sang Lào, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 478,41 triệu USD, đứng vị trí thứ 2 trong tổng số 19 quốc gia và vùng lãnh thổ mà doanh nghiệp Việt Nam có dự án đầu tư trong năm 2011.
Vào cuối năm nay, sẽ có một số dự án đầu tư quy mô lớn tại Lào của doanh nghiệp Việt Nam đi vào hoạt động. Trong số này có Dự án Thủy điện Sekaman 3, công suất 250 MW; Dự án trồng 10.000 ha cao su của Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai; Dự án trồng 10.000 ha cao su của Công ty Cao su Đắc Lắc…
Đầu tư của Việt Nam tại Lào hiện tập trung chủ yếu vào lĩnh vực năng lượng, với tổng vốn đầu tư 1,06 tỷ USD (chiếm 31,68% tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam tại Lào). Tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ, nghệ thuật, giải trí, với tổng vốn đầu tư trên 1 tỷ USD, chiếm 29,93% (trong đó lớn nhất là Dự án Đầu tư phát triển sân golf, khách sạn 5 sao và villa tại Thủ đô Viêng Chăn, với tổng vốn đầu tư 1 tỷ USD). Đứng vị trí thứ ba là lĩnh vực nông-lâm nghiệp, với tổng vốn đầu tư 534 triệu USD, chiếm 15,94%. Thứ tư là lĩnh vực khai khoáng, với tổng vốn đầu tư 376 triệu USD, chiếm 11,21%. Thứ năm là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, với tổng vốn đầu tư 152,5 triệu USD, chiếm 4,55%. Số còn lại thuộc một số lĩnh vực khác.
Ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai cho biết, với dự án trồng cao su và mới đây là Dự án Cụm công nghiệp mía đường do Tập đoàn đầu tư, bộ mặt tỉnh Attapeu đang thay đổi từng ngày. Attapeu sẽ trở thành tỉnh có doanh số xuất khẩu lớn của Lào trong vài năm tới.
Năm ngoái, Hiệp hội Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Lào (do ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam làm chủ tịch) đã được thành lập. “Chúng tôi sẽ thực hiện cơ chế đối thoại với Chính phủ hai nước để các dự án đầu tư ở Lào mang lại hiệu quả cao hơn, đảm bảo tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp”, ông Trần Bắc Hà cho biết.
Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đang rà soát lại các dự án mà phQía Lào xếp loại B và C để tìm nguyên nhân khiến dự án chậm triển khai, đồng thời đề ra các giải pháp giúp chủ đầu tư thực hiện dự án theo đúng tiến độ. Được biết, Hội nghị Xúc tiến đầu tư vào các tỉnh Trung và Nam Lào sẽ tập trung vào các giải pháp trên để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam vào Lào./.
Theo baodautu
Công ty tư vấn luật, tư vấn đầu tư, công ty luật hà nội, luật sư tư vấn tại hà nội, luật sư hà nội, văn phòng luật hà nội