Luật sư tại Hà Nội tư vấn về Di chúc

Di chúc theo bản đính kèm có hợp pháp không?

 Di chúc do bố mẹ tôi lập (có bản đính kèm). Mẹ tôi không biết chữ (từ trước giờ chỉ lăn dấu vân tay) nhưng trong tờ di chúc lại có chữ ký và nhà có 9 người con nhưng di chúc chỉ chia tài sản cho hai người. Vậy di chúc có hợp pháp không? Chân thành cảm ơn.

Gửi bởi: Đặng Lê Quốc

Trả lời có tính chất tham khảo

 Vì bạn gửi bản đính kèm nên chúng tôi tóm tắt nội dung di chúc như sau: Ngày 30/01/1996 bố mẹ bạn lập di chúc với nội dung: định đoạt tài sản cho con gái là Đ.T.B và con trai là Đ.L.Q. Người được ủy quyền để viết di chúc này là bà Đ.T.B. Bố mẹ bạn và bà Đ.T.B (với tư cách là người viết theo ủy quyền) đã cùng ký tên vào cuối bản di chúc. Di chúc  được phòng công chứng huyện chứng thực.

Theo bản đính kèm và theo thông tin bạn cung cấp, chúng tôi xin tư vấn những vấn đề mà bạn hỏi như sau:

Di chúc được bố mẹ bạn lập vào ngày 30/01/1996 nên việc lập di chúc được thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990.

1. Về việc trong di chúc, bố mẹ bạn chỉ chia tài sản cho 2 trong số 9 người con

Điều 10, Điều 11 Pháp lệnh thừa kế quy định về quyền lập di chúc như sau: Công dân có quyền lập di chúc để chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một hoặc nhiều người trong hoặc ngoài các hàng thừa kế theo pháp luật, cũng như cho Nhà nước, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế. Khi lập di chúc người có tài sản có quyền:

– Chỉ định người thừa kế;

– Phân định tài sản cho người thừa kế;

– Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;

– Truất quyền hưởng di sản của một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lý do.

Như vậy, về mặt nội dung di chúc, việc bố mẹ bạn chỉ chia tài sản cho 2 người con mà không chia cho tất cả 9 người con là không trái với quy định của pháp luật. Việc chia cho ai, không chia cho ai, chia như thế nào là quyền của bố mẹ bạn.

2. Về việc mẹ bạn không biết chữ (theo thông tin của bạn) nhưng vẫn ký vào di chúc và vấn đề tính hợp pháp của di chúc

Di chúc hợp pháp theo quy định của pháp lệnh thừa kế là di chúc do người từ đủ mười tám tuổi trở lên tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.

Nội dung bản di chúc (Điều 13 Pháp lệnh thừa kế): Ngoài những nội dung theo quy định thì trong bản di chúc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Hình thức di chúc (Điều 14 Pháp lệnh thừa kế): Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bản di chúc. Người lập di chúc có thể tự viết hoặc nhờ người khác viết bản di chúc, nhưng người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc bản di chúc được, không ký hoặc điểm chỉ được, thì phải nhờ người chứng kiến. Người chứng kiến đọc bản di chúc cho người lập di chúc nghe và ký vào bản di chúc trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

Từ những quy định trên, di chúc do bố mẹ bạn có hai vấn đề như sau:

* Vấn đề thứ nhất: Nếu đúng như bạn thông tin là mẹ bạn không biết chữ thì việc mẹ bạn ký ở cuối bản di chúc có thể không phải là chữ ký của bà. Bạn có thể yêu cầu tổ chức giám định để giám định chữ ký này xem đúng là chữ ký của mẹ bạn hay không.

* Vấn đề thứ hai: Nếu mẹ bạn không đọc bản di chúc được, không ký được (trường hợp bà không biết chữ) thì phải nhờ người chứng kiến. Người chứng kiến sẽ phải ký vào bản di chúc trước mặt người có thẩm quyền công chứng huyện nơi bố mẹ bạn lập di chúc. Nhưng trong bản di chúc mà bạn gửi file đính kèm thì không có chữ ký của người chứng kiến. Nếu coi bà Đ.T.B là người chứng kiến việc lập di chúc của bố mẹ bạn là sai so với quy định vì bà Đ.T.B là con (thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ bạn) nên không được chứng kiến việc lập di chúc của bố mẹ. Cụ thể Điều 19 Pháp lệnh thừa kế nêu: Người không được chứng thực, xác nhận di chúc, chứng kiến việc chứng thực di chúc là:

– Người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của ngDi chúc theo bản đính kèm có hợp pháp không?ông được làm người chứng kiến việc chứng thực di chúc.

Nếu mẹ bạn không biết chữ thì di chúc nêu trên có thể đã vi phạm quy định của pháp luật về tính hợp pháp trong việc lập di chúc. Từ những quy định và những vấn đề mà chúng tôi đưa ra ở trên bạn có thể tìm hiểu rõ hơn về việc này.

Luật sư tại hà nội, công ty luật tại hà nội, dịch vụ luật tại hà nội, văn phòng luật sư tại hà nội, luật sư giỏi tại hà nội

Luật sư tư vấn về lĩnh vực đầu tư

Luật sư tư vấn về lĩnh vực đầu tư

Câu hỏi: Từ năm 2006, Luật Đầu tư đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Chúng tôi là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được cấp Giấy phép đầu tư trước năm 2006. Hiện nay, Công ty chúng tôi có nhu cầu chuyển đổi hình thức đầu tư sang Công ty cổ phần. Xin hỏi các thủ tục đăng ký vốn điều lệ của Công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài khi chuyển đổi thành Công ty cổ phần?

Trả lời:
Khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp quy định: “vốn điều lệ là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết trong một thời gian nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty”.
Khoản 4 Điều 6 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp quy định: “vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá số cổ phần đã phát hành. Số cổ phần đã phát hành là số cổ phần mà các cổ đông đã thanh toán đủ cho công ty. Tại thời điểm đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp, vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá các cổ phần do các cổ đông sáng lập và các cổ đông phổ thông khác đã đăng ký mua và được ghi trong điều lệ công ty; số cổ phần này phải được thanh toán đủ trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”.
Đồng thời, khoản 4 Điều 40 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp quy định: “vốn điều lệ của công ty cổ phần không bao gồm giá trị của số cổ phần được quyền chào bán”.
Do vậy, việc xác định vốn điều lệ của công ty cổ phần tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp cần căn cứ quy định nêu trên. Trong quá trình hoạt động, trường hợp công ty tăng, giảm vốn điều lệ hoặc thay đổi tỷ lệ góp vốn, đề nghị thực hiện theo quy định của Điều 40 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp.
Đề nghị Công ty liên hệ với các cơ quan chức năng của UBND tỉnh nơi Công ty đặt trụ sở chính để được hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết đối với việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp./.

Luật sư hà nội, dịch vụ luật sư hà nội, công ty luật hà nội, văn phòng luật sư hà nội, luật sư tư vấn tại hà nội, luật sư giỏi tại hà nội

 

Luật sư tư vấn Hà Nội đề nghị tăng khung hình phạt đối với một số loại hình phạm tội

Luật sư tại Hà Nội – Tình trạng vi phạm pháp luật, coi thường kỷ cương, côn đồ chống người thi hành công vụ, lâm tặc tàn phá rừng, khai thác khoáng sản… đặc biệt là đối tượng vị thành niên có xu hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ, tính chất vi phạm, nhưng khung hình phạt còn thấp, các biện pháp chế tài chưa đủ sức răn đe, đề nghị tăng khung hình phạt cao hơn và thêm chức năng, nhiệm vụ, công cụ hỗ trợ cho những lực lượng thi hành từng nhiệm vụ.

1. Về đề nghị tăng hình phạt đối với tội chống người thi hành công vụ, phá rừng, khai thác khoáng sản…, đặc biệt là đối tượng vị thành niên.

– Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 275, với mức hình phạt nhẹ nhất là cải tạo không giam giữ (6 tháng), và mức hình phạt nặng nhất là tù có thời hạn (7 năm). Hành vi chống người thi hành công vụ còn là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cho một số tội phạm như tội giết người quy định tại Điều 93 (giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân, với mức hình phạt cao nhất là tử hình); tội đe dọa giết người quy định tại Điều 103 (đe dọa giết người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân, với mức hình phạt cao nhất là 7 năm tù); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 104 (phạm tội để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân, với mức hình phạt cao nhất là tù chung thân); tội lây truyền HIV cho người khác quy định tại Điều 117 (phạm tội đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân, với mức hình phạt cao nhất là 7 năm tù); tội cố ý truyền HIV cho người khác quy định tại Điều 118 (phạm tội đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân, với mức hình phạt cao nhất là tù chung thân); tội làm nhục người khác quy định tại Điều 121 (phạm tội đối với người thi hành công vụ, với mức hình phạt cao nhất là 3 năm tù); tội vu khống quy định tại Điều 122 (phạm tội đối với người thi hành công vụ, với mức hình phạt cao nhất là 3 năm tù); tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, quy định tại Điều 123 (phạm tội đối với người thi hành công vụ, với mức hình phạt cao nhất là 5 năm tù)…

Những quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 cho thấy Nhà nước ta có thái độ nghiêm khắc đối với hành vi chống người thi hành công vụ. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, hành vi chống người thi hành công vụ có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, có nguyên nhân là do áp dụng pháp luật chưa nghiêm khắc, chính xác và thống nhất. Để góp phần khắc phục tình trạng trên, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công an đã chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp xây dựng dự thảo thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng Điều 257 Bộ luật hình sự về “Tội chống người thi hành công vụ” để thực hiện thống nhất; đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 257 Bộ luật hình sự theo hướng tăng mức hình phạt đối với tội chống người thi hành công vụ; kịp thời triển khai thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, nhất là các quy định về xử lý các hành vi vi phạm về mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; về sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ phục vụ công tác đảm bảo an ninh, trật tự, qua đó tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật được chính xác, thống nhất. Về lâu dài khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự sẽ đề xuất có những quy định phù hợp hơn để đáp ứng yêu cầu xử lý tội phạm chống người thi hành công vụ.

– Về hành vi phạm tội phá rừng, khai thác khoáng sản: Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, hành vi phạm tội phá rừng, tùy từng trường hợp mà bị xử lý về tội hủy hoại rừng quy định tại Điều 189, tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng quy định tại Điều 175 hoặc về tội vi phạm quy định về quản lý rừng quy định tại Điều 176. Theo đó, hành vi phạm tội hủy hoại rừng có thể bị phạt đến 15 năm tù, hành vi phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có thể bị phạt đến 10 năm tù, hành vi phạm tội vi phạm quy định về quản lý rừng có thể bị phạt đến 12 năm tù. Hành vi phạm tội khai thác khoáng sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 1999, với hình phạt cao nhất là 10 năm tù. Như vậy, hình phạt quy định đối với các hành vi phạm tội phá rừng và khai thác khoáng sản khá nghiêm khắc. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hành vi vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng, quản lý khoáng sản ngày càng diễn biến phức tạp, tốc độ rừng bị tàn phá không ngừng gia tăng, nguồn tài nguyên, khoáng sản ngày càng cạn kiệt, gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường sinh thái. Bộ Công an cho rằng, để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ rừng, quản lý tài nguyên, khoáng sản thì biện pháp quan trọng là cần nâng cao ý thức, trách nhiệm và hiệu quả quản lý, bảo vệ rừng, tài nguyên, khoáng sản của các cấp, các ngành, chính quyền địa phương, nâng cao trách nhiệm và năng lực của các lực lượng làm công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng, tài nguyên, khoáng sản. Tuy nhiên, việc quy định tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng là một biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm. Vì vậy, Bộ Công an xin ghi nhận kiến nghị của cử tri để có đề nghị thích hợp trong quá trình tham gia xây dựng Bộ luật Hình sự sửa đổi lần này.

– Đối với đề nghị tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội: Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa và đặc điểm phát triển tâm sinh lý của người chưa thành niên, Bộ luật hình sự đã có các quy định riêng đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo đó, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội; việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm; không xử phạt tù chung thân, tử hình, hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội… Tuy nhiên, thực tiễn gần đây cho thấy tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất, mức độ nghiêm trọng. Bộ Công an cho rằng, để hạn chế sự gia tăng tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, biện pháp quan trọng là cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, thực hiện lối sống có văn hóa, lành mạnh, nâng cao trách nhiệm của nhà trường, gia đình trong việc quản lý, giáo dục người chưa thành niên; quản lý chặt chẽ các điểm kinh doanh trò chơi trực tuyến, quán bar, karaoke và các lĩnh vực, cơ sở kinh doanh, dịch vụ nhạy cảm khác để kịp thời ngăn chặn, loại trừ các nguyên nhân, điều kiện vi phạm pháp luật của người chưa thành niên. Việc tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những biện pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, việc quy định tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội là vấn đề lớn, do vậy Bộ Công an xin ghi nhận kiến nghị của cử tri để có đề nghị thích hợp trong quá trình tham gia xây dựng Bộ luật hình sự sửa đổi lần này.

2. Về đề nghị thêm chức năng, nhiệm vụ, công cụ hỗ trợ cho những lực lượng thi hành công tác phòng, chống tội phạm.

Bộ Công an đã ban hành các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng lực lượng trong đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm và vi phạm pháp luật. Qua ý kiến của cử tri, tới đây, Quốc hội sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, nếu tăng khung hình phạt và biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật trên, Bộ Công an sẽ điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng liên quan cho phù hợp để đáp ứng kịp thời công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó, có đề nghị tăng thẩm quyền cho điều tra viên, cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ điều tra, xử lý tội phạm và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội…

Bộ Công an đã chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương tổ chức rà soát, xây dựng kế hoạch và thực hiện cải tiến, bổ sung, thay thế, trang bị các loại phương tiện, vũ khí, công cụ hỗ trợ cho lực lượng làm nhiệm vụ phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự. Hiện nay, trang thiết bị và điều kiện làm việc của lực lượng Công an nhân dân đã được cải thiện một bước, góp phần quan trọng nâng cao năng lực và sức mạnh chiến đấu, bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân. Tuy nhiên, việc trang bị các phương tiện hiện đại để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả hơn còn phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, cần phải có thời gian và lộ trình phù hợp./.

Theo BCA

Công ty luật Hưng Nguyên – Văn phòng luật sư Hà Nội

Luật sư tư vấn Luật Nghĩa vụ quân sự

Luật sư tư vấn Luật Nghĩa vụ quân sự

Khách hàng hỏi: 

Gia đình tôi gồm mẹ tôi đã 56 tuổi đang bị bệnh tiểu đường, em tôi đang học cao đẳng chưa có thu nhập .Tôi là lao động duy nhất trong gia đình. Luật sư cho tôi hỏi tôi có được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự không? Thủ tục tôi phải làm thế nào để trình bày với Hội đồng nghĩa vụ quân sự. Tôi cám ơn rất nhiều.

 Trả lời:

Khoản 1 Điều 29 Luật nghĩa vụ quân sự quy định các trường hợp công dân được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình. Đó là các trường hợp:

  1. Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của hội đồng khám sức khỏe;
  2. Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi người khác trong gia đình không còn sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động;
  3. Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ;
  4. Giáo viên, nhân viên y tế, thanh niên xung phong đang làm việc ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; cán bộ, công chức, viên chức được điều động đến làm việc ở những vùng này;

đ. Đang nghiên cứu công trình khoa học cấp nhà nước được bộ trưởng, thủ trường cơ quan ngang bộ hoặc người có chức vụ tương đương chứng nhận;

e. Đang học ở các trường phổ thông, trường dạy nghề, trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học do chính phủ quy định;

g. Đi xây dựng vùng kinh tế mới trong ba năm đầu.

Hàng năm, những công dân thuộc diện tạm hoãn gọi nhập ngũ quy định tại khoản này phải được kiểm tra, nếu không còn lý do tạm hoãn thì được gọi nhập ngũ.

 Công dân trong độ tuổi gọi nhập ngũ nếu thuộc một trong các đối tượng nói trên thì được tạm hoãn gọi nhập ngũ. Theo như bạn trình bày, bạn là lao động duy nhất trong gia đình có mẹ bị bệnh tiểu đường, em trai đang học cao đẳng chưa có thu nhập. Tại Nghị định số 38/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định về việc tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ thời bình đối với công dân nam trong độ tuổi gọi nhập ngũ, lao động duy nhất tại điểm b khoản 1 Điều 29 bao gồm (Khoản 2, 3 Điều 3):

– Là lao động duy nhất phải trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người khác trong gia đình không còn sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động.

            – Là lao động duy nhất trong gia đình vừa bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận.

            Trường hợp mẹ của bạn bị bệnh tiểu đường, không phải là trường hợp thứ hai (bị thiệt hại nặng do tai nạ, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra). Để được xác nhận thuộc trường hợp được tạm hoãn gọi nhập ngũ, bạn phải làm đơn trình bày về hoàn cảnh thực tế của gia đình: là lao động duy nhất phải trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người khác trong gia đình không còn sức lao động. Vấn đề này phải được sự xác nhận của chính quyền địa phương. Sau khi trình bày, hội đồng nghĩa vụ quân sự sẽ xem xét và nếu trường hợp của bạn là chính đáng thì bạn sẽ được tạm hoãn gọi nhập ngũ. Lưu ý: được kiểm tra hàng năm, nếu không còn lý do tạm hoãn thì được gọi nhập ngũ.

 CÔNG TY LUẬT HƯNG NGUYÊN